Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015

Báo động: Nhồi máu cơ tim đang tấn công người trẻ



51
Cần lưu ý khoảng thời gian vàng cấp cứu bệnh nhân NMCT
Nếu trước đây, thường mặc định nhồi máu cơ tim (NMCT) là bệnh thường thấy ở người già thì gần đây, xuất hiện nhiều ca NMCT ở người trẻ, thậm chí có người chưa đầy 30 tuổi cũng NMCT.
Chưa đầy 30 tuổi đã nhồi máu cơ tim
BS Bùi Long, Trưởng khoa Tim mạch can thiệp, BV Hữu Nghị kể, bệnh nhân tên Nguyễn Văn H. (quê ở Ninh Bình, làm ruộng), nhập viện trong tình trạng mệt, vã mồ hôi kèm cảm giác khó thở và tức nặng ngực trái. 
Do bệnh nhân mới 27 tuổi nên các bác sĩ cũng bất ngờ khi hình ảnh chụp động mạch vành qua da có huyết khối nhiều gây tắc hoàn toàn một nhánh động mạch lớn. 
Bệnh nhân được hút huyết khối và đặt stent kịp thời nên không để lại biến chứng nguy hiểm. Một trong những nguyên nhân khiến bệnh nhân rơi vào tình trạng này là do bệnh nhân nghiện thuốc lá nặng từ năm 16 tuổi.
Theo BS Bùi Long, đối với người cao tuổi, nguyên nhân chủ yếu của NMCT là xơ vữa động mạch diễn ra nhiều năm. Còn với người trẻ dưới 40 tuổi, NMCT chủ yếu là do huyết khối hình thành trong lòng động mạch do stress, béo phì, nghiện thuốc lá nhiều năm liền dẫn tới lớp nội mạc mạch máu bị tổn thương nặng.
Nếu như ở người cao tuổi, xơ vữa động mạch diễn ra từ từ làm cơ tim có sự thích nghi nhất định với tình trạng thiếu máu thì ở người trẻ tuổi, việc đột ngột xuất hiện huyết khối làm tắc nghẽn mạch máu nuôi cơ tim sẽ khiến cơ tim dễ bị choáng hơn, hoại tử nhanh hơn. Người trẻ lại thường chủ quan không nghĩ mình mắc phải căn bệnh này nên càng dễ nguy hiểm đến tính mạng.
“Chính chế độ ăn uống không hợp lý, những áp lực cuộc sống và thói quen không tốt cho sức khỏe đã và đang làm thay đổi độ tuổi mắc bệnh tim mạch”, bác sỹ Long nhìn nhận
Lưu ý khoảng “giờ vàng”
Trao đổi với PV, BS Bùi Long cho biết, hiện nay đã có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị, nên tỉ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim cấp đã giảm đi đáng kể. Dù vậy, NMCT cấp vẫn là một bệnh nặng, diễn biến phức tạp, có nhiều biến chứng nguy hiểm luôn đe dọa tính mạng người bệnh.
Đa số các trường hợp NMCT là hậu quả của xơ vữa động mạch vành. Tuy nhiên, cũng có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân khác như: Bất thường bẩm sinh động mạch vành, bóc tách động mạch chủ lan vào động mạch vành, chấn thương giập vỡ động mạch vành, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, huyết khối từ nhĩ trái hay thất trái gây tắc động mạch vành, sử dụng cocain, co thắt động mạch vành, hoặc do tai biến trong thủ thuật chụp hay can thiệp động mạch vành qua da...
Để xử trí với ca NMCT, bệnh nhân thường được sử dụng thuốc tiêu cục máu đông hoặc can thiệp qua da như nong bóng và đặt stent động mạch vành kết hợp với việc hút bỏ cục máu đông. 
Tuy nhiên, theo BS Bùi Long, hiệu quả của các biện pháp này phụ thuộc rất nhiều vào thời gian áp dụng điều trị, thuốc tiêu cục máu đông hay can thiệp động mạch vành qua da chỉ có hiệu quả thực sự khi được tiến hành trong khoảng “thời gian vàng” là từ 2 - 4 giờ kể từ lúc khởi phát.
Trường hợp phải mổ bắc cầu nối chủ vành cấp cứu là biện pháp cuối cùng để mở thông lòng mạch và cứu sống bệnh nhân đồng thời sửa chữa những biến chứng do NMCT gây ra dù tỷ lệ thành công ở giai đoạn cấp là không cao. “Như vậy khi đã NMCT, bệnh nhân cần được điều trị tích cực càng sớm càng tốt, nhất là việc mở thông đoạn mạch bị tắc”, BS Bùi Long cho biết.
Theo khuyến cáo của các chuyên gia về tim mạch, để giảm nguy cơ xơ vữa động mạch nói chung và nguy cơ NMCT nói riêng, điều cần làm là phải điều chỉnh lối sống thích hợp. Trong đó, người bệnh nên bỏ hoàn toàn hút thuốc lá, tránh ngửi khói thuốc, ăn ít chất béo, ăn thêm hoa quả, giảm cân nặng nếu thừa cân, kiểm soát chặt chẽ huyết áp và đường máu trong giới hạn cho phép.
Nhiều thử nghiệm có quy mô rất lớn ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy việc dùng các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu (aspirin) và các thuốc hạ mỡ máu nhóm statin có hiệu quả tương đối rõ đối với phòng ngừa xuất hiện các biến cố tim mạch, không những NMCT mà cả tai biến mạch não...
“Ngoài ra, theo dõi sát, điều chỉnh kịp thời, phát hiện từ sớm và xử trí triệt để cơn đau thắt ngực ổn định do hẹp động mạch vành cũng có vai trò hết sức quan trọng để hạn chế và phòng ngừa xuất hiện NMCT”, BS Long  nhấn mạnh. 

Ăn dầu ô liu tốt cho tim mạch

Kết luận này phần nào lý giải về chế độ ăn uống của người dân vùng Địa Trung Hải với dầu ô liu giúp họ có trái tim khỏe mạnh, ít gặp nguy cơ đột quỵ hơn so với các vùng khác. “Dầu ô liu có tác dụng hạ thấp lượng đường glucose trong máu và cholesterol nhằm giảm tác động tiêu cực lên hệ thống tim mạch", nhà nghiên cứu Violi tại ĐH Sapienza, Rome, cho hay.
oilive-oil640-istock-4900-1440996403.jpg
Ảnh: Fox.
Thí nghiệm này tiến hành với nhóm người khỏe mạnh ăn một bữa ăn trưa kiểu Địa Trung Hải điển hình gồm trái cây, rau, ngũ cốc, cá và hạn chế dùng sữa hay các loại thịt đỏ. Một nhóm dùng 10 g tức khoảng 2 muỗng cà phê dầu ôliu, còn nhóm khác ăn kèm 10 g dầu ngô.
Xét nghiệm máu thực hiện trước và sau bữa ăn hai giờ cho thấy lượng đường trong máu tăng lên ở tất cả những người tham gia. Tuy nhiên lượng đường trong máu tăng ít hơn với nhóm ăn dầu ô liu so với người dùng dầu ngô. Ngoài ra, ăn dầu ô liu cơ thể ít tích lũy lipoprotein và cholesterol, vốn được biết đến là nguyên nhân gây xơ vữa động mạch, huyết khối và các cơn đau tim.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) người chết vì bệnh tim mạch nhiều hơn bất kỳ nguyên nhân nào khác, mà nguyên nhân chính đến chế độ ăn uống nhiều cholesterol, chất béo và thói quen ít vận động.

Tim mạch và thai nghén

Những người khỏe mạnh hệ thống tim mạch thích ứng được với những thay đổi đó, nhưng với những sản phụ có bệnh tim mạch thì thai nghén trở thành gánh nặng và làm cho các bệnh lý tim mạch trở nên nặng hơn, dễ xảy ra tai biến và biến chứng cho mẹ và thai nhi. Vì thế, việc theo dõi, điều trị, tiên lượng và quyết định các can thiệp đối với bệnh nhân tim mạch đang mang thai rất quan trọng.
Các bệnh van tim và thai nghén
Khoảng 1% số phụ nữ mang thai có các bệnh lý van tim và đi kèm với tăng nguy cơ xuất hiện các biến chứng nguy hiểm đối với mẹ và thai nhi. Các bệnh van tim hay gặp gồm:
Hẹp van hai lá: Bệnh hẹp van hai lá là bệnh tim rất đáng quan tâm ở phụ nữ có thai vì khởi đầu người bệnh thường không có triệu chứng nhưng khi mang thai có thể diễn biến xấu đi do nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim hoặc do nhu cầu cung cấp máu tăng lên dẫn đến các biến chứng thường gặp là phù phổi cấp, nếu không được điều trị dễ dẫn đến tử vong. 
Vì thế sản phụ có bệnh hẹp van hai lá nặng cần được tư vấn bởi bác sĩ chuyên khoa tim mạch và thường điều trị nong van hoặc phẫu thuật sửa/thay van hai lá trước khi mang thai.
Tim mạch và thai nghén
Hở van hai lá: Nguyên nhân thường do di chứng thấp tim hoặc sa van hai lá. Sản phụ thường dung nạp tốt nên đôi khi quá trình mang thai vẫn diễn ra bình thường (thường gặp ở sản phụ chức năng tim còn bù trừ tốt), tuy nhiên ở những sản phụ có hở van hai lá nặng, kèm theo chức năng tim đã suy giảm thì quá trình thai nghén dễ có các biến chứng khi sinh nở.
Hẹp van động mạch chủ: Nguyên nhân thường gặp là bẩm sinh hoặc do di chứng của thấp tim. Nếu hẹp van động mạch chủ nặng hoặc đã có triệu chứng như khó thở, đau ngực thì cần khuyên người bệnh không nên có thai cho tới khi được phẫu thuật. Nếu đã mang thai và xuất hiện các triệu chứng sớm thì nên cân nhắc đình chỉ thai nghén.
Hở van động mạch chủ: Sản phụ thường dung nạp tốt khi chức năng tim còn trong giới hạn bình thường. Cần lưu ý một số thuốc trong quá trình thai nghén như thuốc "ức chế men chuyển" (loại thuốc hay dùng điều trị trong hở van động mạch chủ) có nguy cơ dị tật với thai nhi, nên cần thay thế bằng nhóm thuốc khác.
Van cơ học: Những sản phụ có mang van tim nhân tạo (được thay van nhân tạo cơ học trước khi mang thai) cần dùng thuốc chống đông suốt đời và phải tiếp tục trong suốt thời kỳ mang thai. 
Tuy nhiên, các thuốc chống đông như wafarin (Sintrom) và các dẫn xuất khác có thể dẫn đến bệnh lý thai nhi trong thời gian từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 12, đồng thời làm tăng nguy cơ sảy thai, thai lưu và xuất huyết nội sọ thai. 
Vì thế, với người bệnh mang van tim cơ học, việc mang thai sẽ dẫn đến nguy cơ lớn cho cả mẹ và thai nhi. Nếu vẫn tiếp tục mang thai, thì trước khi sinh cần phải dừng wafarin và thay bằng thuốc chống đông khác là heparin trong 10 ngày trước khi sinh. Trong khi sinh thì dừng dùng heparin và dùng lại wafarin từ ngày thứ 2 hoặc thứ 3 sau khi sinh.
Bệnh tim thiếu máu cục bộ
Các yếu tố nguy cơ gây nhồi máu cơ tim ở phụ nữ có thai cũng tương tự như người không có thai. Nguy cơ nhồi máu sẽ tăng lên ở trường hợp đa thai, người hút thuốc lá, bệnh nhân đái tháo đường, béo phì, tăng huyết áp và tăng mỡ máu. Nhồi máu cơ tim hay gặp nhất trong 3 tháng cuối của quá trình mang thai và tử vong của mẹ khoảng 20%. Về điều trị cũng tương tự với người không có thai.
Rối loạn nhịp và thai nghén
Ngoại tâm thu nhĩ và thất rất phổ biến trong thời kỳ mang thai. Nhiều sản phụ có cảm giác tim đập mạnh trong lồng ngực và thấy có khoảng hẫng nhịp sau nhịp ngoại tâm thu. Rối loạn nhịp nhanh cũng phổ biến trong thai kỳ. Khoảng 20% trường hợp phụ nữ có cơn nhịp nhanh trên thất từ trước sẽ tái phát trong thời kỳ có thai. Vì thế, các sản phụ cần được theo dõi về tim mạch trong suốt quá trình mang thai.
Các bệnh tim ít gặp khác trong quá trình thai nghén như: Tăng áp lực động mạch phổi, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn, bệnh cơ tim chu sản (một loại bệnh lý đặc biệt có liên quan quá trình thai sản)… 
Đối với những sản phụ nói chung, đặc biệt các sản phụ có bệnh tim nói riêng cần được theo dõi và quản lý thai nghén định kỳ theo hướng dẫn của nhân viên y tế. Các sản phụ có bệnh lý tim mạch kèm theo, cần được thăm khám và kết hợp điều trị của bác sĩ chuyên khoa tim mạch nhằm giảm các nguy cơ biến chứng và tai biến trong thai kỳ, đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và em bé.

Tâm lý căng thẳng làm tăng nguy cơ đau tim, đột quỵ

Các nhà khoa học ĐH Colombia thuộc Hội Tim (Mỹ) cho thấy nguy cơ bịcơn đau tim và đột quỵ tăng cao ở những phụ nữ từng bị rối loạn stress sau chấn thương (PTSD).
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 49.978 phụ nữ, xem xét mối liên quan giữa những triệu chứng của PTSD với biến cố về tim mạch trong vòng 20 năm. Những phụ nữ có 4 triệu chứng PTSD hoặc nhiều hơn có tỉ lệ nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn 60% so với những người chưa từng có tiền sử bị chấn thương tâm lý. Tỉ lệ nguy cơ bệnh tim mạch cao hơn bình thường 45% ở những phụ nữ từng trải qua biến cố gây chấn thương nhưng không có triệu chứng PTSD.
TS. Jennifer Sumner khuyến cáo rằng: “PTSD thường được xem là bệnh về tâm lý nhưng phát hiện của chúng tôi cho thấy nó cũng ảnh hưởng nặng nề đến sức khỏe thể chất, đặc biệt là nguy cơ tim mạch và có khả năng dẫn đến tử vong”.
PTSD là rối loạn lo âu, thường xảy ra ở phụ nữ nhiều hơn nam giới do bệnh nhân trải qua biến cố nặng như thiên tai, chiến tranh, bị tấn công, bị cưỡng bức...

Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

Ai dễ mắc hội chứng Brugada

Hội chứng Brugada thường được chẩn đoán ở thanh thiếu niên và người lớn. Nó hiếm khi xảy ra ở trẻ nhỏ.
Trong hội chứng Brugada, nam giới mắc nhiều hơn phụ nữ. Tuy nhiên, ở trẻ nhỏ và vị thành niên, tỷ lệ giới tính lại tương đương. Nếu các thành viên khác trong gia đình có hội chứng Brugada, nguy cơ mắc bệnh này gia tăng. Hội chứng Brugada cũng xảy ra thường xuyên hơn ở người châu Á hơn so với các chủng tộc khác.
Biến chứng nguy hiểm
Đột ngột ngất xỉu là một biến chứng của hội chứng Brugada nhưng biến chứng nghiêm trọng nhất của hội chứng này là ngừng tim đột ngột. Người bệnh nếu không được cấp cứu kịp thời sẽ tử vong. Hiện nay phương pháp điều trị hữu hiệu cho các trường hợp mắc hội chứng Brugada là cấy máy khử rung tim. Trong trường hợp ngừng tim xảy ra, cần tiến hành cấp cứu ngừng tim, ngừng thở trước khi thầy thuốc đến hoặc đến được bệnh viện.
Lời khuyên của thầy thuốc
Như đã nói, người mắc phải hội chứng Brugada có thể khó khăn trong việc xác định các triệu chứng. Do đó có thể chậm trễ khi quyết định đến bác sĩ. Vì vậy việc quan trọng là phải luôn chú ý tới sức khỏe của bản thân. Khi có các triệu chứng và yếu tố nguy cơ kể trên, cần tìm tới bác sĩ. Kiểm tra sức khỏe thường xuyên, định kỳ và bất kỳ lúc nào có các triệu chứng bất thường.
Kiểm tra thường xuyên có thể giúp phát hiện những diễn biến mới nhất của bệnh và có quyết định điều trị thích hợp.
Khi chưa có sự điều trị của đội ngũ y tế, có thể giúp người bệnh bị ngưng tim qua cơn nguy hiểm bằng hồi sức tim phổi:
Nhanh chóng kiểm tra xem nạn nhân có tỉnh không, có thở không. Nếu nạn nhân không thở, kiểm tra động mạch cổ trong vòng 5 - 10 giây. Nếu không có mạch trong vòng mười giây, lập tức tiến hành hồi sức tim phổi gồm 3 bước: nhấn tim - thông đường thở - hà hơi thổi ngạt:
Nhấn tim: Vị trí nhấn tim là giữa lồng ngực, tại nửa dưới của xương ức. Nhấn tim với lực của hai bàn tay, khuỷu tay thẳng, nhấn xuống sâu ít nhất 5cm. Cần nhấn tim mạnh và nhanh, ít nhất 100 lần/phút. Sau mỗi lần nhấn tim, cần để lồng ngực phồng lên trở lại rồi mới nhấn tiếp. Thời gian ngừng nhấn tim (để đổi người nhấn tim hay thực hiện hà hơi thổi ngạt) không được quá 10 giây.
Sau 30 lần nhấn tim, chuyển qua thông đường thở và hà hơi thổi ngạt. Mở thông đường thở bằng cách dùng một tay đẩy nhẹ trán nạn nhân xuống, tay kia nâng cằm lên, sau đó tay đẩy trán sẽ dùng ngón trỏ và ngón cái để bịt mũi bệnh nhân và thực hiện động tác hà hơi thổi ngạt hai lần liên tiếp. Luân phiên giữa nhấn tim và hà hơi thổi ngạt theo công thức 30:2 (30 lần nhấn tim/2 lần hà hơi thổi ngạt).
Cố gắng duy trì hồi sức tim phổi cho đến khi có đội ngũ y tế đến hỗ trợ hoặc nạn nhân tỉnh lại.

BSCKII. Nguyễn Thị Thông tuyết

Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2015

Ăn hoa hồng trị bệnh tim?

1392259241_news
Một danh sách khoảng mười thứ hoa ăn được nhằm cải thiện các bệnh từ ung thư đến rối loạn thành kinh đã được đưa ra. 

Nhiều loại hoa trong nghiên cứu đã được dùng làm thuốc ở Trung Quốc đã rất lâu, nhưng giờ đây các tác giả nghiên cứu muốn thúc đẩy các lợi ích này ở phương Tây.
Nghiên cứu được đăng trên Tạp chí Khoa học Thực phẩm, cho biết hoa chứa các phenol có đặc tính kháng viêm. “Các loại hoa này có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim, một vài bệnh ung thư và kháng viêm,” chủ nhiệm nhóm nghiên cứu Lina Xiong, đại học Chiết Giang, nói.
Hoa hồng giúp trị tiểu đường và tim mạch, hoa violet giúp củng cố các thành mạch máu, hoa sen cạn (nasturium) có đặc tính chống ung thư và cải thiện thị lực.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng cần phải có nhiều nghiên cứu chứng minh sâu hơn.

Cách phát hiện mắc hội chứng Brugada

Một người mẹ đang nằm trên sopha nói chuyện với con gái. Bà từng được chẩn đoán rối loạn nhịp tim và hôm nay bà thấy mệt. Cô gái quay đi lấy cốc nước, khi quay lại đã thấy mẹ mình xỉu đi và trái tim bà đã ngừng đập. Đây chính là bệnh nhân mắc hội chứng Brugada, mà biến chứng nguy hiểm nhất là đột tử do ngừng tim.
Hội chứng Brugada là một căn bệnh có liên quan tới rối loạn nhịp tim. Nhiều người mắc căn bệnh này không có bất kỳ triệu chứng nào hoặc có mà thoáng qua, không để ý tới. Tuy nhiên, hội chứng Brugada có thể gây ra nhịp tim bất thường nguy hiểm, có thể gây ngất xỉu hoặc ngừng tim đột ngột. Để phát hiện ra bệnh, chỉ có thể qua kiểm tra điện tâm đồ.
Cách phát hiện mắc hội chứng Brugada
Ép tim ngoài lồng ngực.
Làm sao phát hiện bệnh?
Nhiều người có hội chứng Brugada mà không biết để khám bác sĩ bởi bệnh có rất ít triệu chứng đáng chú ý. Tuy nhiên, do bệnh có yếu tố gia đình, nên nếu trong nhà có người bị đột tử vì ngừng tim hoặc đã được chẩn đoán hội chứng Brugada cần để tâm tới các dấu hiệu có thể hướng tới hội chứng Brugada sau:
Ngất xỉu; tim đập không đều hoặc đánh trống ngực; hội chứng Brugada có dấu hiệu và triệu chứng tương tự như một số vấn đề về nhịp tim khác, vì vậy khi có các dấu hiệu và tiền sử gia đình như trên, nên đến bác sĩ để xác định bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân có thể do một cấu trúc bất thường của tim, cũng có thể do tác dụng của thuốc chữa bệnh hoặc do sử dụng chất gây nghiện. Hội chứng này khiến tim bơm máu không hiệu quả. Kết quả là không đủ máu đi đến phần còn lại của cơ thể. Điều này có thể gây choáng ngất, rối loạn nhịp tim khác, hoặc trong trường hợp cực kỳ nặng, đột ngột ngừng tim.