Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015

Kiểm soát tăng huyết áp

Trong y văn của YHCT không có bệnh danh tăng huyết áp (THA), nhưng căn cứ vào những triệu chứng lâm sàng cho thấy bệnh này thuộc phạm vi chứng huyễn vựng trong YHCT.

Theo quan niệm của YHCT, nguyên nhân của chứng huyễn vững là do:
- Yếu tố tinh thần (rối loạn thất tình): do tinh thần căng thẳng kéo dài, hay lo nghĩ, tức giận khiến can khí uất kết, dẫn đến can thận âm hư, can dương vượng.
-  Yếu tố ăn uống không điều độ: ăn quá nhiều các chất béo, ngọt, uống rượu bia nhiều, hút thuốc lá... dẫn đến đàm thấp nội sinh mà phát bệnh.
-  Nội thương hư tổn: thường gặp ở những người do lao lực quá độ hay ở người cao tuổi, thận yếu, can không được nuôi dưỡng dẫn đến can phong nội động sinh ra chứng huyễn vựng.
Thầy thuốc YHCT xưa đã quy nạp chứng huyễn vựng thành 4 thể lâm sàng chính: can dương vượng, can thận âm hư, đàm thấp, tâm tỳ hư và tùy thuộc vào tính chất bệnh lý của mỗi thể bệnh mà có những phương pháp điều trị khác nhau. 
Trong 4 thể lâm sàng này thì có 3 thể tương đồng với bệnh tăng huyết áp của YHHĐ, đó là:
Thể can dương vượng
-  Triệu chứng lâm sàng: Người bệnh thường đau đầu, hoa mắt hay có cơn bốc hỏa, mặt đỏ, chất lưỡi đỏ, mạch huyền.
-  Pháp điều trị: Bình can tiềm dương.
-  Bài thuốc cổ phương: Thiên ma câu đằng ẩm.
Kiểm soát tăng huyết áp bằng YHCT
Thể can thận âm hư
-  Triệu chứng lâm sàng: Người bệnh thường chóng mặt, đau đầu, gò má đỏ, lòng bàn tay bàn chân nóng, hay ra mồ hôi trộm, lưỡi đỏ, khô, mạch huyền tế.
-  Pháp điều trị: Dưỡng thận tư âm.
-  Bài thuốc cổ phương: Kỷ cúc địa hoàng hoàn.
Thể đàm thấp
-  Triệu chứng lâm sàng: Người bệnh thường hoa mắt, chóng mặt, đầu thường có cảm giác nặng, người thường béo phì, lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch nhu hoạt.
-  Pháp điều trị: Trừ đàm, hóa thấp.
-  Bài thuốc cổ phương: Bán hạ bạch truật thiên ma thang.
Người xưa, trong điều kiện chưa có YHHĐ, để điều trị chứng huyễn vựng người ta thường sử dụng thuốc YHCT tùy theo từng thể lâm sàng. Ngoài ra người ta còn có thể sử dụng châm cứu để điều trị các triệu chứng của chứng huyễn vựng như: đau đầu, cơn bốc hỏa, mất ngủ… 
Ngày nay, kết hợp YHCT với YHHĐ thì vai trò của YHCT trong kiểm soát THA nên như thế nào để vừa đảm bảo phát huy được vai trò của dược thảo, cùng với kinh nghiệm và lý luận trị bệnh độc đáo của YHCT vừa đảm bảo an toàn cho người bệnh trong quá trình kiểm soát huyết áp, tránh những biến chứng đáng tiếc xảy ra?
Trước hết trong điều trị THA của YHHĐ bước đầu ngay ở bệnh nhân THA độ I, không có biến chứng bệnh tim mạch và tổn thương cơ quan đích đã đề cập tới sự điều chỉnh lối sống ở ngay 4 - 6 tháng đầu và vấn đề này vẫn tiếp tục với việc dùng thuốc ở bệnh nhân THA nặng.
Thay đổi lối sống làm giảm huyết áp: giảm cân nặng; hạn chế muối ăn; tăng cường vận động thân thể; tăng cường ăn rau và hoa quả; giảm chất béo toàn phần và loại bão hòa.
Các biện pháp làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch: ngừng hút thuốc; thay chất béo bão hòa bằng chất béo đơn không bão hòa; tăng ăn cá.
Theo PGS.TS Nguyễn Nhược Kim - Sức khỏe và Đời sống

10 thói quen cần tránh để có trái tim khỏe

Gần 90% các rối loạn về tim có liên quan tới các yếu tố lối sống như hút thuốc, uống rượu, ăn quá nhiều, ít tập luyện…

Xem Ti Vi quá nhiều
Theo một nghiên cứu trên tạp chí của Trường Tim mạch Mỹ năm 2011, xem TV quá nhiều có thể gây nguy hiểm cho trái tim của bạn. Nếu xem TV nhiều hơn 4 tiếng mỗi ngày thì cho dù tập thể dục thường xuyên, bạn vẫn có nguy cơ cao gấp 2 lần bị đột quỵ hoặc ngừng tim phải nhập viện, thậm chí tử vong.
Uống nước ngọt cho người ăn kiêng
Uống nước ngọt cho người ăn kiêng thường xuyên có thể giúp bạn giải nhiệt trong mùa nóng nhưng lại gây hại cho sức khỏe tim mạch. 
Sử dụng thường xuyên loại nước này còn có thể tăng nguy cơ đột quỵ hoặc bệnh tim khác kể cả người không có tiền sử về bệnh tim.
benhtimmach1-9017-1435031038.jpg
Ngủ nhiều hơn 9 tiếng mỗi ngày có thể làm tăng huyết áp và mức độ stress của bạn. Ảnh:Urifemme
Uống rượu
Rượu vang đỏ có một số thuộc tính có lợi cho tim, nhưng uống quá nhiều bất cứ loại rượu nào cũng đều không tốt.Uống quá nhiều rượu có thể làm tăng lượng kcal và phá hủy giấc ngủ của bạn, dần dần ảnh hưởng tới tim.
Ngủ quá nhiều hoặc quá ít
Ngủ dưới 5 tiếng hoặc nhiều hơn 9 tiếng mỗi ngày có thể làm tăng huyết áp và mức độ stress của bạn. Hơn nữa, thói quen này cũng làm tăng nguy cơ bệnh mạch vành.
Trầm cảm
Tất cả chúng ta ai cũng trải qua những thời điểm căng thẳng, có thể tới mức trầm cảm vì lý do này hay lý do khác.Đương nhiên, không thể loại bỏ những cảm xúc này một cách dễ dàng nhưng cách bạn đối diện với những cảm xúc tiêu cực đó có thể gây tổn hại cho tim.
Ngáy
Bên cạnh việc gây khó chịu, ngủ ngáy là một dấu hiệu của ngừng thở khi ngủ. Những người ngủ ngáy có nguy cơ cao mắc bệnh về tim vì họ thường xuyên bị thở ngắt quãng, khiến cho huyết áp tăng.
Tập thể dục quá sức
Tập luyện quá sức làm tăng áp lực lên tim, kết quả là gây mệt mỏi hoặc ngất xỉu. Do đó, bạn không nên luyện tập quá sức. Tuy nhiên vì phần lớn mọi người tập luyện ở mức ít hoặc vừa phải nên vấn đề này chỉ xuất hiện ở một nhóm nhỏ.
Vệ sinh răng miệng
Sức khỏe răng miệng kém có thể khiến bạn thở kém và làm tăng nguy cơ bệnh tim. Lý do là vi khuẩn từ nướu đi qua mạch máu khiến mạch máu bị hẹp lại, giảm lưu thông máu. Trong tương lai đây có thể là yếu tố nguy cơ của bệnh tim.
Ăn quá nhiều
Béo phì là nguyên nhân hàng đầu gây các bệnh về tim. Béo phì là kết quả của việc ăn quá nhiều và ít vận động.Vì vậy hãy cố gắng ăn ít, tránh đường và các loại thực phẩm chứa nhiều calo để có cuộc sống khỏe mạnh.
Hút thuốc
Hút thậm chí là chỉ một điếu thuốc mỗi ngày cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh về tim. Bên cạnh các bệnh về tim, hút thuốc còn có thể gây ung thư và nhiều bệnh về phổi khác.Vì vậy, hãy bỏ thuốc trước khi quá muộn.
Theo Hải Ngân - VnExpress


Chứng hoảng sợ liên quan đến bệnh tim

Những người từng bị chứng rối loạn hoảng sợ (panic disorder) có nguy cơ bị bệnh tim và cơn đau tim cao hơn người bình thường.

Nghiên cứu của các nhà khoa học Úc tại Học viện Y khoa Adelaide mới được công bố trên tạp chí Psychological Medicine. Nhóm nghiên cứu đã tham khảo dữ liệu của 12 cuộc khảo sát liên quan đến hơn 1 triệu người, trong đó có 58.111 người bị bệnh mạch vành. 
Kết quả cho thấy những người bị chứng hoảng sợ có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn 47% và cơn đau tim cao hơn 36% so với người không bị chứng hoảng sợ.
Rối loạn hoảng sợ và đau tim có một số triệu chứng giống nhau Ảnh: MNT
Rối loạn hoảng sợ và đau tim có một số triệu chứng giống nhau Ảnh: MNT
Tuy nhiên, trưởng nhóm nghiên cứu Gary Wittert nói rằng mối liên quan nói trên vẫn còn gây tranh cãi, một phần do rối loạn hoảng sợ với bệnh tim có nhữngtriệu chứng chồng chéo như đau ngực, tim đập nhanh và hơi thở ngắn nên không loại trừ trường hợp chứng hoảng sợ bị chẩn đoán nhầm thành đau tim. 
Rối loạn hoảng sợ được thể hiện bằng cơn hoảng sợ (panic attack) khiến bệnh nhân đột ngột có cảm giác sợ hãi cao độ và tự mất kiểm soát vài phút. 
Trong khoảng thời gian này cũng có kèm theo triệu chứng về thể chất như đổ mồi hôi, hơi thở rối loạn, choáng váng, tim đập nhanh, cảm giác nóng hoặc lạnh, đau ngực hoặc đau bụng. Tỉ lệ bệnh nhân ở nữ giới cao gấp đôi đàn ông.
Các nhà khoa học cho rằng cần có nghiên cứu thêm để hiểu rõ làm thế nào chứng hoảng loạn có thể gây ảnh hưởng đến tim nhưng khuyến cáo những người từng bị cơn hoảng sợ và lo âu nên theo dõi cẩn thận hơn sức khỏe tim mạch.
Theo Trúc Lâm - Người lao động


Bài thuốc quý từ tỏi chữa bệnh cao huyết áp

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), bệnh huyết áp cao là khi chỉ số huyết áp tối đa (huyết áp tâm thu) trên 140mmHg và huyết áp tối thiểu (huyết áp tâm trương) trên 90mmHg.

Con số này được coi là tương đối và còn tùy thuộc vào cơ địa, lứa tuổi và sức chịu đựng của từng người.
Vài năm trở lại đây, số lượng người mắc bệnh tăng huyết áp đang có chiều hướng gia tăng.
Theo GS Phạm Gia Khải, Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, ở nước ta, người có độ tuổi từ 25 trở lên mắc bệnh tăng huyết áp chiếm tỉ lệ khá cao và có xu hướng gia tăng. Chẳng hạn, năm 1960 chỉ có 1%; năm 2002 đã tăng lên 11,5%; năm 2008 vọt lên 25,1%...
Để điều trị bệnh cao huyết áp, cần tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn của bác sĩ. Có thể dùng các biện pháp Đông y hỗ trợ điều trị nhưng phải có sự thăm khám thường xuyên để bác sĩ nắm được những chuyển biến của bệnh.
Theo đó, bạn có thể ăn uống các thực phẩm tốt cho sự ổn định huyết áp hoặc sử dụng một số bài thuốc từ thảo dược. Một trong những thực phẩm - thảo dược rất tốt cho bệnh cao huyết áp chính là tỏi.
Tỏi có vị cay, tính ôn, vào hai kinh can và vị, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát độc, sát trùng, trừ phong, tiêu nhọt, tiêu đờm…
Qua nhiều nghiên cứu, người ta thấy tỏi có thể chữa được 4 nhóm bệnh:
- Bệnh xương khớp (viêm đau khớp, vôi hóa các khớp, mỏi xương khớp)
- Bệnh hô hấp (viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản)
- Bệnh tim mạch (huyết áp cao, huyết áp thấp, xơ mỡ động mạch)
- Bệnh tiêu hóa (ợ chua, khó tiêu, viêm loét dạ dày - tá tràng).
Trong y văn có ghi rằng tỏi được dùng để trị bệnh cao huyết áp ở Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước đây. Giới chức y tế Nhật Bản cũng chính thức thừa nhận tỏi là thuốc trị huyết áp cao.
Năm 1948, BS F.G. Piotrowski ở Geneve khẳng định công dụng của tỏi để trị cao huyết áp. Theo ông, tỏi làm giãn mở những mạch máu bị nghẹt hay bị co hẹp, nhờ đó máu lưu thông dễ dàng và áp lực giảm.
Nhà sinh học V. Petkov thực hiện nhiều nghiên cứu ở Bulgarie cho hay tỏi có thể hạ huyết áp tâm thu từ 20-30 độ, huyết áp tâm trương từ 10 tới 20 độ.
ThS.LY Vũ Quốc Trung, phòng chẩn trị Y học cổ truyền chùa Cảm Ứng, Hà Nội (Hội Đông y Hà Nội) cho rằng cách đơn giản nhất để sử dụng tỏi để chữa bệnh cao huyết áp là dưới dạng rượu tỏi hoặc giấm tỏi.
Cách làm như sau: Tỏi sống 0,25kg, bóc bỏ vỏ ngoài rồi ngâm với 0,65 lít rượu gạo 40 độ, hoặc giấm 4 - 5 % axit axetic. Ngâm trong 10 ngày là dùng được.
Liều lượng: Ngày dùng 2 lần, sáng trước bữa ăn và tối trước khi đi ngủ, mỗi lần khoảng 3ml.
Sở dĩ sử dụng rượu tỏi hoặc dấm tỏi không những vì 2 cách chế biến này đơn giản, dễ làm, dễ ăn mà còn do tỏi trong môi trường axit (giấm, rượu) sẽ tăng tác dụng lên 4 lần so với tỏi sống.
Theo Thái Phong - Đại lộ



NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

TPHCM: Lần đầu tiên phẫu thuật thành công điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu

BV Đại học Y Dược TPHCM vừa áp dụng thành công phương pháp điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới phức tạp bằng cách phối hợp giữa phẫu thuật và đặt stent tĩnh mạch.

Đây là một phương pháp mới và lần đầu tiên được áp dụng ở Việt Nam.

Ngày 7/6, bà N.N.L (48 tuổi, ngụ Tiền Giang) được đưa vào khoa cấp cứu BV Đại học Y Dược TPHCM trong tình trạng chân trái đau nhức, bắt đầu chuyển sang màu xanh tím và phù căng cứng từ bàn chân lên đến vùng đùi. Trước đó 10 ngày, chân trái của bệnh nhân bắt đầu xuất hiện phù, mức độ phù và đau ngày càng tăng. 

Kết quả siêu âm mạch máu và chụp cắt lớp tĩnh mạch cho thấy các tĩnh mạch sâu ở chân trái bệnh nhân bị tắc nghẽn hoàn toàn do huyết khối, lan rộng từ các tĩnh mạch nhỏ ở cẳng chân đến tĩnh mạch lớn ổ bụng. 

Dựa vào các kết quả có được, bác sĩ chẩn đoán bệnh nhân bị tắc tĩnh mạchsâu cấp tính thể nặng, có nguy cơ hoại tử chân nếu không điều trị kịp thời. Hình ảnh chụp cắt lớp còn cho thấy một đoạn tĩnh mạch ở vùng bụng của bệnh nhân bị hẹp nặng ngay vị trí bắt chéo với một động mạch khác.

Êkip bác sĩ khoa Phẫu thuật - Mạch máu đã tiến hành phẫu thuật lấy huyết khối trong lòng tĩnh mạch của bệnh nhân, sau đó nong bóng và đặt stent sửa chữa đoạn tĩnh mạch chậu bị hẹp trên. Hình chụp kiểm tra sau đó cho thấy lòng tĩnh mạch không còn huyết khối và vị trí tĩnh mạch chậu bị hẹp đã được mở rộng, máu chảy về tim một cách dễ dàng. 

Sức khỏe của bà L. đã được hồi phục và xuất viện


Theo ThS.BS Lê Thanh Phong, Trưởng đơn vị Phẫu thuật - Mạch máu, huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới là một bệnh nguy hiểm rất thường gặp, có biểu hiện lâm sàng đa dạng từ không triệu chứng đến đau chân, da chuyển màu xanh tím, phù căng, thậm chí hoại tử tĩnh mạch. 

“Biến chứng trầm trọng nhất của bệnh là thuyên tắc động mạch phổi có thể gây đột tử. Nếu không điều trị sớm, về sau người bệnh có nguy cơ cao bị suy tĩnh mạch hậu huyết khối với tình trạng chân đau nhức và lở loét không lành, làm giảm chất lượng cuộc sống", BS Thanh Phong khẳng định.

Ở nước ta, từ trước đến nay, bệnh huyết khối tĩnh mạch sâu thường được điều trị bằng phương pháp kháng đông. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu trên thế giới, những bệnh nhân chỉ điều trị bằng kháng đông, 5 năm sau có đến 90% bị hội chứng hậu huyết khối, 40% xuất hiện cơn đau cách hồi tĩnh mạch và 15% sẽ chuyển thành lở loét ở chân. Nghiên cứu cũng ghi nhận chất lượng cuộc sống giảm đi một cách đáng kể ở những người bị hội chứng hậu huyết khối.

ThS.BS Trần Minh Bảo Luân, giảng viên bộ môn Phẫu thuật Lồng ngực - Tim mạch ĐH Y Dược TPHCM giải thích thêm: "Hội chứng hậu huyết khối xuất hiện là do huyết khối cấp không được lấy đi gây tắc hẹp tĩnh mạch mạn tính, biểu hiện bằng tình trạng đau chân, phù, thay đổi sắc thái da ở cẳng chân và lở loét chân không lành. Ngoài ra, những bệnh nhân điều trị nội khoa đơn thuần còn có nguy cơ huyết khối tĩnh mạch cấp tái phát dai dẳng cùng với nguy cơ thuyên tắc phổi cao."

BV Đại học Y Dược TPHCM là đơn vị đầu tiên trong cả nước áp dụng thành công phương pháp phẫu thuật kết hợp với can thiệp nội mạch để điều trị huyết khối tĩnh mạch cấp cho những đối tượng bệnh nhân phù hợp. 

Khi phẫu thuật can thiệp lấy huyết khối thành công, các đoạn tĩnh mạch tắc hẹp được sửa chữa bằng cách đặt stent, dòng chảy được hồi phục và các van được bảo tồn. Nhờ đó chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sẽ được cải thiện đáng kể. Khi đó, khả năng huyết khối tĩnh mạch tái phát sẽ giảm xuống đồng nghĩa với việc giảm nguy cơ thuyên tắc động mạch phổi.

Theo BS Bảo Luân, huyết khối tĩnh mạch sâu cấp tính nếu được phát hiện sớm trong vòng 2 tuần có thể được loại bỏ bằng biện pháp can thiệp nội mạch, phẫu thuật hoặc phối hợp cả 2 phương thức. Trong đó, biện pháp can thiệp nội mạch giúp cho phẫu thuật thực hiện dễ dàng và kiểm tra hiệu quả hơn, bên cạnh đó giúp phát hiện và sửa chữa những thương tổn tắc hẹp của tĩnh mạch bằng cách nong bóng và đặt stent.

Có 3 nguyên nhân chính tạo nên huyết khối tĩnh mạch sâu. Thứ nhất là tình trạng tăng đông máu, thường gặp sau phẫu thuật, chấn thương, nhiễm trùng, ung thư hay bệnh tăng đông máu di truyền. Thứ hai là tình trạng ứ đọng tĩnh mạch và cuối cùng là các tổn thương nội lòng tĩnh mạch.

Về cơ bản có 2 phương pháp phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch tái phát sau phẫu thuật. Thứ nhất là phương pháp cơ học (vận động sớm sau mổ, tập vật lý trị liệu gấp duỗi cổ chân ở những bệnh nhân bất động, gác chân lên cao, mang vớ áp lực, mang vớ hơi áp lực ngắt quãng nhằm giúp giảm tình trạng ứ đọng tĩnh mạch). Thứ hai là sử dụng thuốc kháng đông làm giảm khả năng đông máu. Các biện pháp này có thể áp dụng riêng hay kết hợp tùy từng trường hợp cụ thể. 

Theo BV Đại học Y Dược TPHCM

Thế hệ tim mới không nhịp đập

Để giúp nhóm người bị suy tim có cơ hội chờ được cấy ghép tim hiến tặng, y học đã nghiên cứu, cho ra đời nhiều công nghệ, thiết bị như tim nhân tạo biosynthesis. 
Tim nhân tạo “không nhịp đập” và cả những loại tim “lai” giữa bò với máy móc hoặc sử dụng công nghệ dòng chảy liên tục...
Ngoài nguy cơ không hợp nhịp, bị đào thải, một vấn đề lớn khác đối với tim nhân tạo cần đạt được là tính bền vững, thỏa mãn các tiêu chí tự nhiên giống như tim sinh học. 
Một trái tim của người khỏe mạnh phải bơm khoảng 35 triệu lần mỗi năm, một khối lượng công việc đáng ngạc nhiên, một thách thức không nhỏ đối với tim nhân tạo. Để khắc phục những tiêu chí này, Viện Tim mạch Texas, Mỹ (THI) mới đây đã nghiên cứu cho ra đời một thế hệ tim không nhịp đập nhưng có thể cung cấp dòng chảy máu liên tục, đó là tim nhân tạo BiVACOR. 
Thông thường, khi cả hai buồng tim bị hỏng, người bệnh buộc phải cấy ghép thay tim. Nhưng nếu chỉ có một bên không bơm được máu thì tim có thể được xử lý bằng cách cấy ghép nhằm hỗ trợ bơm máu. 
Thiết bị hỗ trợ tâm thất trái (LVADs) là thiết bị trợ tim cấy ghép cung ứng dòng máy chảy liên tục, giúp trái tim ốm yếu cấp máu đi khắp cơ thể, đôi khi đảm nhận hầu hết hoặc toàn bộ chức năng đầu ra của tim. Đến nay đã có trên 20.000 người được thay loại tim dạng tua bin này.
Tim Bi VACOR là một trong số ít lựa chọn để cấy ghép cho trẻ nhỏ mắc bệnh tim, đây là một bước tiến quan trọng trong công nghệ sản xuất tim nhân tạo, đặc biệt là giảm kích thước để phù hợp dùng cho các bệnh nhi. 
Giống như tất cả các công nghệ tim nhân tạo hiện có, BiVACOR vẫn còn tồn tại nhược điểm, song phương án dùng cánh quạt để lưu thông máu sẽ hạn chế việc xuất huyết nội, đột quỵ hoặc các biến chứng khác.
Theo Nam Bắc Giang - Sức khỏe và Đời sống




NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ

NHẬN TẶNG VÀ MUA QUẦN ÁO CŨ


Gọi cho chúng tôi 0902233317

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Chất chống ôxy hóa giúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch

Các nhà khoa học Đại học Colorado Boulder (Mỹ) cho biết, chất chống ôxy hóa MitoQ có thể làm đảo ngược những tác dụng tiêu cực do tuổi già lên thành mạch máu, giúp giảm thiểu nguy cơ bệnh tim mạch.
Trong nghiên cứu, các nhà khoa học cho biết MitoQ tác động vào nội mạc một lớp mỏng của tế bào bên trong mạch máu giúp mạch máu giãn nở lúc cần thiết. Điều đó có nghĩa rằng khi cơ thể già đi, khả năng kích thích giãn nở của nội mạc kém khiến con người dễ bị bệnh tim mạch. Để kích hoạt mạch máu giãn nở, nội mạc tiết ra ôxít nitric, nhưng ở tuổi già, ôxít nitric gây giãn nở bị các gốc ôxy hóa như peroxide phá hủy dần. Các peroxide này do một vài thành phần trong tế bào tạo ra, trong đó có cơ quan tế bào được gọi là ti thể. MitoQ nhắm vào các ti thể này để khống chế peroxide, giúp mạch máu giãn nở tốt hơn. Các chất chống ôxy hóa thông thường khác như vitamin C không thể đến được ti thể.
Nghiên cứu trên đã được các nhà khoa học thí nghiệm trên những chú chuột già dùng dung dịch chứa MitoQ trong vòng 4 tuần. Kết quả cho thấy các mạch máu của những chú chuột già vận hành giống chuột trẻ (tương đương người trong khoảng 25-35 tuổi).
Minh Quân
(Theo Journal of Physiology, 6/2015)



Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2015

Ổn định huyết áp nhờ sữa đậu nành

Sữa đậu nành giúp ổn định huyết áp
Sữa đậu nành giúp ổn định huyết áp
Tăng huyết áp là một chứng bệnh nguy hiểm, đặc biệt vào mùa hè. Nhiệt độ cao kèm nắng nóng gay gắt khiến bạn dễ bị tăng huyết áp hơn.
GS Nguyễn Lân Việt, Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam cho biết năm 1960 chỉ có 1% người trưởng thành bị bệnh. Đến năm 2008, con số này tăng đến 27,4%.
Các yếu tố liên quan và nguy cơ gây ra cao huyết áp như béo phì, hút thuốc lá, uống rượu nhiều, ăn mặn, ăn nhiều chất béo, kém vận động, tiểu đường, tăng lipid máu… Tăng huyết áp là bệnh có mối liên hệ với chế độ ăn uống và lối sống sinh hoạt.
Tăng huyết áp có 4 loại biến chứng thường gặp nhất: tim mạch (đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy tim, rối loạn nhịp tim, vỡ phình mạch…); suy thận: tổn thương đáy mắt; tai biến mạch máu não.
Bệnh huyết áp cao không có triệu chứng cụ thể nhưng có nguy cơ dẫn đến những bệnh nguy hiểm nói trên. Đề phòng ngừa và hạn chế tăng huyết áp, mọi người cần thay đổi lối sống và sinh hoạt kèm theo chế độ ăn hợp lý, điều độ, như ăn bớt muối, bớt ngọt, giảm thực phẩm giàu cholesterol, tập thể dục đều đặn, giảm uống rượu, bỏ hút thuốc.
Theo PGS Lê Bạch Mai, Viện phó Viện dinh dưỡng Quốc gia, sữa đậu nànhcó thành phần dinh dưỡng cao, giàu đạm và acid amin thiết yếu, nhiều vitamin nhóm B (B1, B2, B3, B6) và vitamin E, giàu các khoáng chất Ca, Fe, Mg, K, Na rất cho sức khỏe nói chung.
Thức uống này được chế biến từ hạt đậu nành có chứa các loại protein tốt nhất trong các loại protein từ thực vật. Uống sữa đậu nành còn giúp làm giảm cholesterol xấu trong máu (LDL-C), tăng cholesterol tốt có lợi (HDL-C), giảm nguy cơ bệnh tim mạch, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, tai biến mạch máu não…
Thức uống này tốt trong điều kiện thời tiết nắng nóng, nhiệt độ cơ thể tăng cao, đầu óc mỏi mệt, căng thẳng.

Tim nhân tạo "đeo trên người"

Để giúp nhóm người bị suy tim có cơ hội chờ được cấy ghép tim hiến tặng, y học đã nghiên cứu, cho ra đời nhiều công nghệ, thiết bị như tim nhân tạo biosynthesis. 
Tim nhân tạo "không nhịp đập" và cả những loại tim "lai" giữa bò với máy móc hoặc sử dụng công nghệ dòng chảy liên tục...
Tim nhân tạo
Tim nhân tạo trong tương lai.
Hầu hết bệnh nhân được ghép tim phải nhập viện nhiều lần do suy tim, một hoặc cả hai bên tim hoạt động không đúng nhịp. Có thể do tổn thương cơ tim hoặc do van của các buồng tim bị sự cố, do mắc bệnh mạch vành, do bệnh di truyền hoặc do nhiễm virut. 
Tại Mỹ hiện có 2.000 -  2.500 trái tim hiến tặng mỗi năm nên số người được cấy ghép tim rất hạn chế. Để khắc phục, các nhà khoa học đã cho ra đời một loại công nghệ có tên SynCardia Total Artificial Hearts, sản phẩm đầu tiên của công nghệ này là tim nhân tạo Jarvik hay SynCardia hồi thập niên 80 ở thế kỷ trước. 
Đến nay đã có hơn 1.350 cấy ghép thành công loại tim này, tim Jarvik được xem là chiếc cầu nối giúp các bệnh nhân bị suy tim giai đoạn cuối sống để chờ cơ hội được cấy ghép tim.
Nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh, sau 4 năm thử nghiệm, tháng 7/2014. Cơ quan Quản lý Thực - Dược phẩm Mỹ (FDA) đã phê duyệt cho phép dùng thiết bị trợ tim có tên Freedom. Thiết bị này đã được dùng ở châu Âu từ năm 2010, thay cho thiết bị tim cồng kềnh hiện có to bằng chiếc máy rửa bát. 
Freedom nặng chỉ có 13,5 pound (khoảng 6kg), đựng trong chiếc balô đeo trên người hoặc để trên một chiếc xe lăn, sử dụng pin hay ắc quy sạc được. Randy Shepherd, một thanh niên người Mỹ đã sử dụng tim Jarvik và Freedom trong 15 tháng trước khi được cấy ghép tim hiến tặng hồi tháng 10/2014. 
Trong thời gian sử dụng tim Jarvik và Freedom, sức khỏe Randy Shepherd tương đối ổn định, thậm chí còn tham gia cuộc thi chạy bộ mang tên Pat's Run dài 4,5 dặm ở Phoenix, Arizona.

Dấu hiệu ở chân "tố" bạn đã mắc mỡ máu cao

Nguyên nhân gây mỡ máu cao
Giới tính, tuổi tác
Hàm lượng Estrogen có ảnh hưởng đến việc chuyển hóa chất béo từ đó có ảnh hưởng không nhỏ đến mạch máu.
Theo nghiên cứu thì những phụ nữ từ 45 tuổi trở lên có hàm lượng triglyceride và cholesterol xấu trong máu cao sẽ có nguy cơ mắc bệnh mỡ máu cao.
Bên cạnh đó nam giới ở độ tuổi từ 30 trở lên cũng có tỷ lệ mắc mỡ máu cao do chế độ ăn uống sinh hoạt tiêu thụ nhiều rượu bia, thuốc lá và đồ nhậu nhiều dầu mỡ.
Người béo phì
Lượng chất béo dư thừa khiến lượng cholesterol trong máu tăng cao, việc mắc mỡ máu cao với những người thừa cân, béo phì như là một điều hiển nhiên.
Stress
Căng thẳng, stress, áp lực công việc nặng nề người ta thường có xu hướng ăn nhiều hơn, đặc biệt là các chất béo, chất kích thích.
Kết hợp với sự căng thẳng sẽ khiến lượng cholesterol trong máu tăng cao dẫn đến mỡ máu cao.
Ngoài ra việc ít vận động cũng là một nguyên nhân có thể dẫn tới mỡ máu cao.
Biểu hiện ở chân chứng tỏ bạn đã mắc mỡ máu cao
Chân đau, tê bì
Cholesterol trong máu tăng cao khiến mạch máu bị tắc nghẽn, máu không đưa được đến chân khiến chân bị tê bì, đau nhức, sưng tấy, các khớp ngón chân mệt mỏi.
Chuột rút ban đêm
Mỡ máu cao sẽ làm tắc nghẽn, xơ cứng động mạch, đặc biệt vào ban đêm khi bạn ngủ các hoạt động của cơ thể giảm dần đi và khiến cơ chi dưới bị chuột rút.
Nếu người bệnh ngồi dậy và lay lay, lắc lư chân thì sẽ dễ chịu hơn.
Da và móng tay biến đổi
Lượng máu không lưu thông đủ đến phần chân sẽ làm xuất hiện động thời sự thay đổi của màu da và móng chân.
Vùng da phần chân của bạn sẽ sáng và căng lên, móng chân dày và mọc chậm. Bên cạnh đó lông cũng sẽ bị rụng, hay mọc chậm lại khi bạn đã cạo đi.
Da phần chân biến đổi bất thường
Khi bạn nâng chân lên màu da sẽ trắng bệch đi nhưng khi đặt chân xuống da lại biến thành màu đỏ tím. Cử động đứng lên ngồi xuống da và móng chân cũng biến đổi thành máu trắng bệch hoặc xanh.
Đây là biểu hiện thường gặp ở người mỡ máu cao.
Chân lạnh
Lượng máu không đủ cũng cấp đến chân sẽ khiến chân và bàn chân bị lạnh.
Khi có biểu hiện chân lạnh cần đến gặp bác sĩ ngay để xác định sớm nguyên nhân có phải do mỡ máu cao hay không.
Vết thương khó lành
Khi bị xơ vữa động mạch là hậu quả của mỡ máu cao nó khiến lượng máu không thông suốt gây tình trạng thiếu máu ở chân nó có thể gây loét chân.
Nếu có vết thương sẽ lâu và khó lành, vết thương thường có màu thâm đen do máu bị đông lại, gây đau đớn vô cùng.
Phần chân tê cứng hoặc yếu
Chân luôn có cảm giác tê cứng, yếu ớt, bước đi không vững chắc, khó khăn trong việc đi đứng.
Hiện tượng này do tắc nghẽn, xơ cứng động mạch chi dưới - hậu quả của mỡ máu cao gây ra.
Teo cơ bắp chân
Teo cơ bắp chân là hiện tượng sẽ xảy ra khi căn bệnh xơ vữa động mạch khá nặng, tỷ lệ có thể lên tới 50% khi bệnh nặng và không được điều trị kịp thời.
Hoại tử mô
Tỷ lệ mắc mỡ máu caobị hoại tử mô cục bộ chiếm 20% do bệnh quá nặng, các mô ở vùng chân không hoàn toàn nhận được lượng máu để hoạt đọng và khiến nó bị chết gây hoại tử.
Những trường hợp bị hoại tử cục bộ có thể phải cắt cụt chân, thậm chí tính mạng cũng sẽ bị đe dọa trầm trọng.
Do đó, khi có những dấu hiệu bất thường ở chân như tê bì, sưng đau, da đổi màu lúc này bệnh đang nhẹ bạn nên sớm đi gặp bác sĩ để có biện pháp hạ mỡ máu.
Điều trị kịp thời, tránh để nặng gây xơ vữa động mạnh, tăng huyết áp, thậm chí là hoại tử mô chân rất nguy hiểm.

Phòng bệnh tim cho bé

Điều ít ai ngờ, căn bệnh này bắt đầu từ rất sớm, thói quen ăn uống, sinh hoạt, chăm sóc con của cha mẹ là một trong những yếu tố giúp bệnh tim mạch “xâm nhập” cơ thể bé.
Món ngon nhớ lâu
Kinh tế phát triển, món ăn ngày càng phong phú, tiện dụng. Do hạn chế về thời gian, các bà mẹ thường cho con dùng thức ăn nhanh. "Món ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời", các bé khi ăn món gì yêu thích sẽ đòi ăn khi có cơ hội. 
Ăn vài lần là ghiền vì phong cách ăn văn minh, ngon miệng, mỗi người một khẩu phần lại còn kèm cả nước ngọt có gas. Ăn không hết khẩu phần thì ăn cố, ăn vài lần là thích và trở thành thói quen nên dễ bị thừa cân béo phì. Đây là nguyên nhân "mở màn" cho các bệnh xơ vữa mạch máu, rối loạn chuyển hóa mỡ, tiểu đường… viếng thăm!
Hiện nay món ăn Việt Nam được đánh giá khá cao về sự hài hòa giữa bốn nhóm thực phẩm, nhiều màu sắc, mùi vị và chất xơ. Để thêm tuổi thêm khỏe, nên cho các bé dùng các món thuần Việt.
"Mối chúa" ẩn mình
Có bà mẹ gọi con mình là "mối chúa" vì bé chỉ thò mặt ra khỏi phòng lúc ăn, thời gian còn lại bé nằm, ngồi chơi cùng ipad. Khi đóng cánh cửa thực tế, đồng nghĩa với mở cánh cửa bệnh tật. Trẻ còn nhỏ mạch máu còn dẻo dai, xương khớp còn cứng chắc sẽ không cảm thấy ngộp, đau nhức như các bậc trưởng lão, nhưng dễ thấy nhất là thừa cân, béo phì.
Khói thuốc làm bé yếu
Nhiều người cha thương con vô cùng nhưng lại nghiện thuốc lá vô kể, vừa chở con đi chơi vừa hút thuốc; vừa hút thuốc vừa cho con ăn; vào phòng ngủ với con cũng phì phà.
Ai cũng biết hút thuốc thụ động có hại cho sức khỏe, nhưng ít ai biết trẻ em bị ảnh hưởng nhiều nhất vì hệ cơ quan của trẻ chưa phát triển hoàn thiện, sẽ nhạy cảm hơn với các chất độc có trong khói thuốc. 
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài, trẻ thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc lá thì mảng bám trong lòng động mạch cảnh tăng lên gấp hai lần. Các mảng bám này có thể gây nghẽn mạch máu, tạo cơ hội cho bệnh tim mạch trú ngụ. Trẻ có bố mẹ hút thuốc lá có nguy cơ cao mắc bệnh tim khi trưởng thành.
Muối gây nghiện
Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia, người Việt Nam hiện đang dùng 18-22gr muối/người/ngày. Khuyến cáo của Cơ quan Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), mỗi ngày chỉ nên sử dụng 3 - 6gr muối. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo, để giữ sức khỏe không nên ăn quá 6gr muối/người/ngày (tương đương một muỗng cà phê muối). 
Tính ra, chúng ta dùng muối nhiều gấp ba lần so với lượng muối cho phép, có thể dẫn đến nguy cơ cao tăng huyết áp, tim mạch và đột quỵ. Điều đáng ngại là chính các bà mẹ, các đầu bếp nhà trẻ khi nấu cho các bé ăn lại dùng chính tiêu chuẩn độ mặn ngon (theo khẩu vị người nấu) để nêm nếm. Bé đã quen vị mặn thì khi trưởng thành khó lòng ăn ít muối vì nhạt nhẽo nuốt không trôi.
BS Nguyễn Thị Kim Hưng - Trung tâm Làm giàu Thế giới nội tâm TPHCM giải thích: "Một chất được gọi là gây nghiện khi không cần thiết cho cơ thể nhưng lệ thuộc buộc phải dùng. Muối được cấu thành từ clo và natri, hàm lượng các chất này trong thức ăn (chưa nêm nếm) đã đủ cho cơ thể. Chúng ta ăn vì nghiện". 
Sự nghiện ngập này sau hai mươi, ba mươi năm sẽ làm tăng áp lực mạch máu, dẫn đường cho bệnh cao huyết áp xuất hiện, lôi kéo thêm các "hậu sinh khả úy" khác như: xơ vữa mạch máu, loạn nhịp tim, suy thận, đột tử…
Do đó, để bảo vệ cả hệ thống tim mạch và thận cho bé, cha mẹ cần cho con ăn nhạt hơn mình. Bé đã quen vị nhạt sẽ hình thành thói quen, từ chối khi gặp các món nêm mặn. Những ai ở độ tuổi thanh niên, trung niên đã lỡ ăn mặn trong thời gian dài cần cai bớt muối, có như vậy trái tim mới không bị chết non.

5 biến chứng khi thay van tim nhân tạo

Phẫu thuật thay van tim được tiến hành khá sớm trên thế giới - từ những năm 1960 và ở nước ta vào những năm 1970. Mỗi năm có khoảng 280.000 bệnh nhân trên toàn thế giới được thay van tim nhân tạo. Tại nước ta, mỗi năm, trung bình cũng có gần 10.000 bệnh nhân được thay van tim. 
Mặc dù đã có những tiến bộ rõ ràng về thiết kế của van tim cũng như kỹ thuậtphẫu thuật thay van tim trong những thập kỷ qua, nhưng bệnh nhân mang van tim nhân tạo vẫn chưa có thể được đảm bảo hoàn toàn sau khi thay van. Có khá nhiều biến chứng sau khi thay van tim có thể làm ảnh hưởng đến tính mạng bệnh nhân.
Người mang van tim nhân tạo, đặc biệt là van cơ học có nguy cơ cao bị huyết khối gây tắc mạch, vì thế, việc điều trị chống đông lâu dài là bắt buộc. Tuy nhiên, lợi thế không thể bỏ qua của các van tim cơ học hiện nay là độ bền cao. 
Ngược lại, van tim nhân tạo là van sinh học có nguy cơ thấp bị huyết khối và một số bệnh nhân không cần phải dùng thuốc chống đông nhưng độ bền của những van tim này lại hạn chế do thoái triển làm hỏng các van tim này.
5 biến chứng khi thay van tim nhân tạoCác loại van tim nhân tạo.
Biến chứng huyết khối
Biến chứng huyết khối là nguyên nhân chính gây tử vong ở bệnh nhân có van tim nhân tạo. Tỷ lệ biến chứng này gặp ở 0,6 - 2,3% bệnh nhân mỗi năm. Nguy cơ biến chứng huyết khối là giống nhau với bệnh nhân mang van tim cơ học có điều trị warfarin và bệnh nhân van sinh học không có điều trị warfarin. 
Nguy cơ huyết khối không phụ thuộc vào loại van tim nhân tạo cũng như vị trí van tim nhân tạo, các yếu tố nguy cơ. Biến chứng huyết khối có thể gây ra huyết khối bắn lên hệ thống gây ra tắc các mạch như mạch chi hoặc mạch máu não; đặc biệt nguy hiểm khi huyết khối gây kẹt van tim nhân tạo. 
Tỷ lệ huyết khối gây kẹt van nhân tạo gặp từ 0,3 - 1,3% mỗi năm. Triệu chứng của huyết khối gây kẹt van là bệnh nhân có khó thở hoặc mệt mỏi tăng lên trong thời gian ngắn từ vài ngày đến 1 tuần. Điều này đặc biệt hay gặp ở những bệnh nhân đột ngột dừng thuốc chống đông, có thay đổi liều chống đông. Những bệnh nhân có triệu chứng này cần phải được làm siêu âm sớm để chẩn đoán. 
Khi có chẩn đoán huyết khối gây kẹt van nhân tạo mà kích thước huyết khối nhỏ, có thể điều trị thử bằng các thuốc tiêu huyết khối như urokinase hoặc streptokinase. Nếu huyết khối gây kẹt van nhân tạo lớn, di động hoặc bệnh nhân trong tình trạng huyết động không ổn định, phẫu thuật cấp cứu để lấy huyết khối hoặc thay lại van. Với những bệnh nhân mổ lại do kẹt van nhân tạo, tỷ lệ tử vong là 4-5%.
Xuất huyết liên quan đến thuốc chống đông
Ở bệnh nhân dùng thuốc chống đông lâu dài, nguy cơ chảy máu là 1%. Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ huyết khối là giống nhau trên van cơ học và van sinh học nhưng chảy máu xuất hiện nhiều hơn ở van cơ học. Theo dõi INR chặt chẽ sẽ làm giảm nguy cơ chảy máu.
Thoái hóa van
Van cơ học thường có độ bền rất tốt và hiếm khi bị hỏng. Tỷ lệ thoái hóa của van sinh học tăng lên theo thời gian. Thời gian xuất hiện thoái hóa van thường vào năm thứ 7 hoặc thứ 8 sau khi mổ. Van sinh học sẽ thoái hoá từ 50 - 60% ở năm thứ 10 và 70 - 90% ở năm thứ 15.
Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Tỷ lệ viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trên van nhân tạo khoảng 0,5% mỗi năm, thậm chí cả khi dự phòng kháng sinh đúng. Viêm nội tâm mạc trên van nhân tạo là tình trạng bệnh lý nặng nề với tỷ lệ tử vong cao (từ 30 - 50%). 
Chẩn đoán thường dựa trên cấy máu dương tính và siêu âm tim có bằng chứng của nhiễm khuẩn van nhân tạo như có mảnh sùi, áp-xe cạnh van hoặc có dòng hở cạnh chân van mới xuất hiện. Bất chấp việc điều trị kháng sinh thích hợp, nhiều bệnh nhân cần phải phẫu thuật. 
Điều trị nội khoa đơn độc có thể được nếu viêm nội tâm mạc xuất hiện muộn sau thay van (trên 6 tháng sau phẫu thuật). Phẫu thuật nên được làm trong các trường hợp: thất bại khi điều trị nội khoa, huyết động bị ảnh hưởng do dòng hở lớn, mảnh sùi lớn và có dòng chảy mới xuất hiện trong tim.
Hở cạnh chân van
Hở cạnh chân van điển hình là do nhiễm khuẩn, tuột chỉ, xơ hóa và canxi hóa vòng van tự nhiên dẫn đến van áp không chặt giữa vòng van nhân tạo với vòng van tự nhiên của bệnh nhân. Với hở chân van mức độ nhẹ thường là lành tính, chỉ có một số lượng rất ít bệnh nhân (<1%) là cần thiết phải phẫu thuật lại do hở cạnh chân van tăng lên sau 1-2 năm theo dõi.

Hay đánh trống ngực - Bệnh gì?

Hồi hộp hay còn gọi là đánh trống ngực là một triệu chứng hay gặp ở rất nhiều người bị bệnh tim và cả những người không bị bệnh tim nữa. Nó không phải là một triệu chứng đặc trưng cho một nhóm bệnh tim nào. 
Thực ra, nó chỉ là một trong những cảm giác mà bất kỳ người nào cũng chú ý đến, khó chịu vì nó và là triệu chứng khiến mọi người lo âu và đi khám bệnh ở một thầy thuốc chuyên khoa tim mạch.
Cần kết hợp triệu chứng khác để chẩn đoán
Triệu chứng này khi chẩn đoán là dấu hiệu của một bệnh về tim mạch cần phải kết hợp với những triệu chứng khác như: hay mệt, khó thở, phù chân… 
Việc quá lo âu với khả năng bị bệnh tim khi có cảm giác hồi hộp đánh trống ngực thường làm tăng tiết chất Epinephrine trong máu, cộng với sự gia tăng hoạt động của hệ thần kinh thực vật làm gia tăng nhịp tim và sự co bóp của cơ tim càng làm nặng thêm cảm giác hồi hộp của bệnh nhân và có thể đưa đến cảm giác khó thở, tức nghẹn vùng ngực nữa. Cảm giác này rất hay xảy ra vào ban đêm hoặc khi bệnh nhân có việc gì phải lo lắng.
Rất nhiều người tự hỏi tại sao lại có hiện tượng hồi hộp và đánh trống ngực? Thế nhưng ngay cả một số thầy thuốc không phải chuyên khoa tim mạch cũng không biết nữa.
Trong các điều kiện bình thường, với những người khỏe mạnh có type thần kinh trung gian trầm tĩnh và cả một số người khác cũng không cảm giác thấy tiếng đập nhịp nhàng của trái tim. Họ chỉ có thể cảm thấy đánh trống ngực và hồi hộp khi đang ở tình trạng căng thẳng vì hoạt động gắng sức, hoặc do xúc động hay hoạt động tình dục. 
Kiểu hồi hộp và đánh trống ngực này mang tính chất sinh lý bình thường mà nguyên nhân của nó là sự hoạt động quá mức của tim làm tim đập nhanh và tăng co bóp. Cảm giác này có thể xuất hiện do một số bệnh đi kèm như: sốt, thiếu máu nặng hay hội cường giáp. 
Ngoài ra, nếu cảm giác hồi hộp đánh trống ngực xuất hiện trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải nghĩ đến bệnh tim và cần phải đến khám thầy thuốc chuyên khoa tim mạch để có một chẩn đoán chính xác nhất.
Nguyên nhân về tim mạch hay gặp nhất với những bệnh nhân bị bệnh tim mạch là tình trạng rối loạn nhịp tim bao gồm: tình trạng ngoại tâm thu, cơn nhịp nhanh kịch phát, rối loạn thần kinh tim… Những bệnh này có thể là nguyên phát nhưng cũng có thể là hậu quả của bệnh van tim, bệnh động mạch vành hay bệnh viêm cơ tim. 
Việc chẩn đoán những rối loạn nhịp gây ra triệu chứng hồi hộp đánh trống ngực thật ra không khó, chỉ cần đến khám bác sĩ chuyên khoa tim mạch nghe tiếng tim, bắt mạch và đo điện tâm đồ. Nguyên nhân gây ra tình trạng rối loạn nhịp tim có thể được xác định bằng việc siêu âm tim.
Tuy nhiên, có một số trường hợp không phải lúc nào bệnh nhân cũng có cảm giác hồi hộp đánh trống ngực thường xuyên mà chỉ xảy ra vào một vài thời đểm trong ngày nhất là vào ban đêm thì khi khám bệnh thông thường người thầy thuốc cũng không phát hiện ra. 
Khi đo nghiệm pháp đo điện tim 24 giờ sẽ cho kết quả chẩn đoán chính xác nhất. Bệnh nhân được đeo một mày điện tim nhỏ, gắn các điện cực vào vùng trước tim và sinh hoạt bình thường. 
Tất cả các hoạt động điện của tim sẽ được máy điện tim ghi nhận và lưu trữ trong đĩa cứng của máy. Ngày hôm sau, những kết quả này sẽ được truyền qua máy tính và nhờ một chương trình đặc hiệu những rối loạn nhịp tim sẽ được ghi nhận.
Điều trị không dễ
Việc điều trị chứng hồi hộp đánh trống ngực không phải là dễ dàng. Việc đầu tiên là phải giải tỏa tình trạng lo âu quá đáng của bệnh nhân bằng liệu pháp tâm lý để cắt đứt bớt một phần vòng xoắn bệnh lý của chứng hồi hộp. 
Sau đó là sử dụng các loại thuốc chống loạn nhịp và thuốc ức chế việc tăng tiết quá đáng chất Adrenaline va Epinephrine của bệnh nhân. Tất nhiên là phải điều trị các bệnh khác gây ra tình trạng này như: sốt cao, hội chứng cường giáp, thiếu máu nặng và các bệnh tim như suy tim, viêm cơ tim, thiếu máu cơ tim…
Một số trường hợp phải can thiệp bằng thủ thuật cắt đốt hệ thần kinh tự chủ của tim.

Dấu hiệu cảnh báo đau tim

Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2015

Thiết bị trợ tim C-Pulse

C-Pulse là thiết bị trợ tim mới nhất do hãng Sunshine Heart của Australia chế tạo có tác dụng điều tiết lượng máu bơm vào tim, giúp bệnh nhân tránh được cơn đau tim bất thường. C-Pulse hoạt động thông qua túi khí bao quanh động mạch chủ. Các túi khí sẽ giúp bơm máu vào bằng cách phồng lên và xẹp xuống theo nhịp tim. C-Pulse được cấy vào cơ thể người bệnh mà không cần dùng thiết bị tạo nhịp tim và có thể được điều khiển từ bên ngoài. Do C-Pulse nằm ngoài hệ thống mạch máu nên sẽ giảm được nguy cơ cục máu đông. Thiết bị hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm, vừa được Bệnh viện Auckland (New Zealand) cấy ghép thành công cho một bệnh nhân 56 tuổi bị các cơn đau tim hành hạ trong nhiều năm.
(Theo WbMD,

Thứ Năm, 11 tháng 6, 2015

Đỏ ngọn - hiệu quả của thảo dược dân gian trong phòng và trị bệnh mạch vành

Bệnh mạch vành là bệnh lý tim mạch phổ biến với triệu chứng thường gặp nhất là cơn đau thắt ngực, khó thở.

Nguy hiểm hơn, một số người có thể mắc bệnh mạch vành nhưng không hề có biểu hiện gì mà chỉ được xác định khi có cơn nhồi máu cơ tim, suy tim hay loạn nhịp tim.

Với mong mỏi giúp người bệnh có thêm một công cụ hữu hiệu để chiến đấu với bệnh mạch vành, cùng phương châm “Nam dược trị nam nhân” để tận dụng và phát triển nền y học dân tộc, các nhà Dược học đã phát hiện và nghiên cứu sâu hơn về một loài thảo dược phổ biến tại nước ta và được dùng lâu năm theo kinh nghiệm dân gian là cây Đỏ ngọn (hay Thành ngạnh) với tác dụng hỗ trợ phòng trị bệnh mạch vành.
Bệnh mạch vành - những con số báo động!
Theo số liệu của WHO đưa ra tháng 4 năm 2011, tại Viêt Nam, bệnh mạch vành gây ra 78.352 ca tử vong và chiếm gần 15% tổng số ca tử vong. Nguyên nhân của bệnh mạch vành chủ yếu là do lòng mạch bị hẹp và xơ cứng, do tích tụ các mảng xơ vữa trong lòng mạch.
Cây đỏ ngọn - Thảo dược quý từ dân gian cho bệnh mạch vành
Trong số các thảo dược được dùng làm thuốc, cây Đỏ ngọn là loài cây được sử dụng khá lâu theo kinh nghiệm dân gian và gần đây được nghiên cứu và phát hiện có tác dụng tốt trong hỗ trợ điều trị bệnh mạch vành.

Cây đỏ ngọn ở Việt Nam có 5 loài, trong đó loài Cratoxylum prunifoliumthường thấy mọc tự nhiên ở hầu hết các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc Việt Nam. Cây đỏ ngọn cũng phân bố phổ biến ở các nước châu Á như: Trung Quốc, Malaysia, Philipin, Ấn Độ, Indonesia, Myanma, Thái Lan. Cratoxylum formosum là tên khác của loài này.


Các nghiên cứu tiến hành tại Học viện Quân y cho thấy cây Đỏ ngọn chứa các nhóm hoạt chất flavonoid, a-xít hữu cơ, saponin, tanin… có tác dụng triệt tiêu các gốc tự do trong cơ thể, chống oxy hóa, bảo vệ tế bào, ngăn ngừa các nguy cơ xơ vữa động mạch- nguy cơ chính gây ra bệnh mạch vành. 

Nghiên cứu bằng phương pháp xét nghiệm đông máu huyết tương, dịch chiết từ lá cây đỏ ngọn có tác dụng kháng đông, ngăn ngừa rối loạn đông máu, lưu thông tuần hoàn. 
Một số nghiên cứu ở Thái Lan và Trung Quốc cũng cho thấy loài này có tác dụng dọn dẹp gốc tự do, chống oxi hóa và đóng vai trò tiềm năng trong bảo vệ mạch máu khỏi những tác động bất thường hoặc tổn thương. 

Ngoài ra, thành phần trong cây Đỏ ngọn cũng 
có khả năng thúc đẩy hỗ trợ hệ thần kinh, tăng khả năng hình thành phản xạ có điều kiện.                                                            

Đỏ ngọn - dược liệu quý với bệnh mạch vành

Dựa trên những nghiên cứu đó, ngày nay cây Đỏ ngọn được xem là dược liệu quý để người  ta bào chế dưới dạng viên, thuốc thang, trà để sử dụng điều trị theo hướng chống cục máu đông, chống xơ vữa động mạch- nguyên nhân chính gây ra bệnh mạch vành, trong đó Đỏ ngọn phối hợp với nhiều thành phần có lợi cho tim như Hoàng bá, Đan sâm, Sơn tra, L- carnitin… được đánh giá là giải pháp hỗ trợ hữu hiệu, góp phần giúp người bệnh có một trái tim khỏe mạnh.

Huyết áp thấp, bệnh không thể coi thường

Đôi khi những hiện tượng mệt mỏi, hoa mắt,... khiến nhiều người có tâm lý chủ quan và cho rằng chỉ cần uống vài viên thuốc giảm đau, nghỉ ngơi một chút là sẽ khỏi.

Ít ai nghĩ rằng tâm lý ấy ảnh hưởng không nhỏ tới sức khoẻ con người, đặc biệt bệnh đang ngày càng phổ biến trong giới phụ nữ trẻ làm việc tại văn phòng cao ốc đóng kín.
Huyết áp thấp - những dấu hiệu nhận biết
 

Đối với bệnh tăng huyết áp, chỉ số huyết áp là cơ sở quyết định cho chẩn đoán bệnh. Nhưng với bệnh huyết áp thấp, chỉ số đó chỉ có tính chất tham khảo trong khi triệu chứng của bệnh được quan tâm nhiều hơn, điển hình như: mệt mỏi, lả và rất muốn được nghỉ ngơi, hoa mắt chóng mặt, khó tập trung và dễ nổi cáu, có cảm giác buồn nôn. 

Bên cạnh đó, huyết áp thấp có thể suy giảm khả năng tình dục, da nhăn và khô, kèm theo rụng tóc, vã mồ hôi nhưng vẫn cảm thấy lạnh, thở dốc, nói như hụt hơi nhất là sau khi leo cầu thang hay làm việc nặng, khi thay đổi tư thế có thể choáng váng, xây xẩm mặt mày,… 


Huyết áp thấp và những nguy cơ khó lường
Huyết áp thấp gây những biến chứng khó lường

Huyết áp càng thấp thì nguy cơ bị mất trí nhớ càng cao, nó gắn liền với mất trí nhớ do Alzheimer gây ra. Đặc biệt, huyết áp giảm 10mmHg thì nguy cơ mất trí tăng 20% và những người có mức huyết áp thấp kéo dài liên tục trong hai năm có khả năng bị mất trí nhớ cao gấp hai lần. 

Tụt huyết áp cũng có thể làm tim đập nhanh, gây choáng, ngất. Và một điều ít ai biết rằng, huyết áp thấp là một trong những nguyên nhân gây tai biến mạch máu não chiếm tỷ lệ 10 - 15% giống như tăng huyết áp, 30% số người nhồi máu não và 25% số người nhồi máu cơ tim là do huyết áp thấp.
 


Huyết áp thấp và cách điều trị hiệu quả


Vận động thể dục thể thao để tập luyện trái tim, tăng cường tuần hoàn máu não là rất cần thiết, kết hợp chế độ dinh dưỡng đầy đủ muối ăn và nước uống thay vì ăn quá nhạt. 

Hiện nay, nhiều thầy thuốc đã coi trọng y học cổ truyền, lựa chọn sử dụng các vị thuốc như Quy đầu, Ích trí nhân, Xuyên tiêu,… và một số hoạt chất như Magie lactat, L-carnitine,... để tận dụng mọi công năng, vừa bổ huyết vừa hoạt huyết, giúp tăng cường tuần hoàn, lưu thông máu lên não, làm giảm căng thẳng thần kinh, đau đầu, stress,... tác động trực tiếp vào nguyên nhân gây bệnh, nâng cao chỉ số huyết áp một cách bền vững.