Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

7 dấu hiệu tim mạch bạn có vấn đề

Tim là cơ quan mạnh nhất trong cơ thể người. Nếu có những triệu chứng sau, bạn hãy đến gặp bác sỹ ngay.


Theo Kiến thứ

Hở van tim bao nhiêu đáng lo?

"Hở van hai lá 2/4", "hở van ba lá 1/4"... Nhiều người khi khám sức khỏe định kỳ rất lo lắng khi thấy kết quả siêu âm tim ghi như vậy.

Xung quanh bệnh hở van tim, PGS.TS Đỗ Kim Quế - PGĐ BV Thống Nhất, TPHCM - cho biết:
Một ca phẫu thuật tim hở tại BV Thống Nhất, TPHCM - Ảnh: L.TH.H.

- Van tim của con người giống như van một chiều trong hệ thống máy bơm, giúp máu lưu thông theo một chiều, máu từ tĩnh mạch về tim và từ tim đi ra động mạch mà không thể chảy theo chiều ngược lại. Nếu không có van tim, máu sẽ lưu thông hai chiều và tim không thể đẩy máu đi nuôi cơ thể. Van tim bị hở sẽ làm quá trình lưu thông máu khó khăn hơn.
Tim người có bốn van: van hai lá, van ba lá, van động mạch chủ và van động mạch phổi. Van dễ bị tổn thương nhất là van hai lá, kế đến là van động mạch chủ, còn van ba lá và van động mạch phổi ít bị tổn thương hơn.
Thưa PGS, hở van tim bao nhiêu mới đáng lo và cần điều trị thế nào?
- Quy ước trên siêu âm tính độ hở của van tim có bốn mức: hở 1/4, 2/4, 3/4 và 4/4. Nếu chỉ bị hở từ 2/4 trở xuống thì không phải lo lắng nhiều vì đó là chuyện bình thường, chưa phải điều trị mà chỉ cần định kỳ tái khám, theo dõi; ngoại trừ việc hở van tim là hậu quả của những bệnh khác như thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, thấp tim...
Van tim bị hở từ 2/4 trở lên mới cần phải chú ý, kiểm tra để xác định nguyên nhân và điều trị. Khi van tim bị hở 3/4 trở lên mới phải điều trị tích cực. Nếu bị hở từ 3,5/4 trở lên sẽ mổ để sửa chữa van tim hoặc thay van tim nhân tạo.
Về điều trị, tùy nguyên nhân gây hở van tim mà việc điều trị sẽ khác nhau. Nếu hở van tim do tim bị giãn, khi điều trị tim nhỏ lại sẽ hết hở. Nếu hở do dây chằng bị dài hoăc bị đứt thì không thể hết, nhất là khi bị đứt thì phải mổ để sửa lại, nhưng vẫn phải điều trị để bệnh không nặng thêm và không dẫn tới suy tim. Khi bị hở van tim từ 2/4 trở lên, bệnh nhân nên đến bác sĩ tim mạch khám tìm những yếu tố nguy cơ có thể thúc đẩy bệnh nặng thêm để điều trị...
Nguyên nhân nào khiến van tim bị hở, thưa PGS?
- Các tổn thương khiến van tim bị hở có thể chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất do nguyên nhân bẩm sinh, tức mới sinh ra đã có dị tật bẩm sinh ở tim. Nhóm thứ hai do nguyên nhân người bệnh có những bệnh lý mắc phải.
Trong bệnh lý hở van tim do mắc phải lại chia ra làm hai dạng bệnh thường gặp: Bệnh lý van tim mắc phải do hậu thấp, tức là sau khi bị thấp khớp, thấp tim mới dẫn đến bị hở van tim; hở van tim do nguyên nhân này hiện nay chiếm tỉ lệ cao nhất ở Việt Nam và những nước đang phát triển. Bệnh lý van tim mắc phải do thoái hóa, hở van tim do thoái hóa có thể do thoái hóa của tuổi già, hoặc do bệnh lý nào đó làm tim thoái hóa nhanh hơn so với người bình thường.
Bên cạnh hở van tim do thoái hóa còn có những bệnh lý có thể gây ra tổn thương ở van tim, cụ thể như thiếu máu (thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim). Khi van tim bị hư như vậy sẽ làm đứt những dây chằng, đứt phần cơ giữ van tim ở trong khiến van tim bị hở. Ngoài ra còn những bệnh lý khác hiếm gặp nhưng cũng có thể làm van tim bị hở, như bệnh cơ tim giãn nở hoặc bệnh nhân bị phình động mạch chủ, viêm nội tâm mạc...
Những triệu chứng của hở van tim thế nào?
- Thông thường hở van tim nhẹ sẽ không có triệu chứng. Chỉ khi hở van tim đã làm tim bị suy, thậm chí bị phù, gan đã lớn thì lúc đó mới xuất hiện triệu chứng khó thở, mệt, đau ngực, không nằm đầu thấp được. Đối với những trường hợp hở van tim mà chưa có triệu chứng phải siêu âm mới thấy.
Có khi nào siêu âm tim bị sai không?
- Kết quả siêu âm phụ thuộc vào người thực hiện. Nếu người làm có kinh nghiệm thì kết quả sẽ chính xác hơn người không có kinh nghiệm. Trang thiết bị cũng ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả siêu âm tim. Với máy móc tốt, độ nhạy cao, độ phân giải cao sẽ nhìn rõ hơn, chính xác hơn so với máy cũ, máy có độ phân giải thấp...
Ngoài ra, cần lưu ý van tim không phải lúc nào cũng cố định. Có lúc nó hở một chút, có lúc lại hết hở vì van tim là những cái lá rất mỏng, khi thắt lại với nhau thì kín, nhưng có khi vì một lý do nào đó bị hơi hở một chút nhưng sau đó lại trở về bình thường. 
Vì thế mới có chuyện bệnh nhân thắc mắc chỗ này siêu âm bảo hở, chỗ khác lại bảo không hở. Thực tế có khi van tim hết hở thật chứ không phải do bác sĩ siêu âm sai.
Xin cảm ơn PGS.

Theo Lê Thanh Hà - Tuổi trẻ

Chạy 5 phút mỗi ngày có thể ngăn ngừa bệnh tim

Theo CNN, nghiên cứu công bố trên tạp chí của Đại học Tim mạch Mỹ chỉ ra rằng, chạy chỉ vài phút mỗi ngày, nhanh hay chậm, có thể giảm nguy cơ chết vì bệnh tim

Nghiên cứu đã được thực hiện với hơn 55.000 người trưởng thành trong độ tuổi từ 18 đến 100 và trong khoảng thời gian 15 năm, quan sát trên sức khỏe tổng thể của họ, cho dù họ có chạy hay không và họ sống được bao lâu.
So với những người không chạy, những người chạy có nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch thấp hơn 45%. Tuổi thọ trung bình của họ cũng nhiều hơn 3 năm. Khi dữ liệu được phân tích theo độ tuổi, giới tính, chỉ số khối lượng cơ thể, hút thuốc và uống rượu, kết quả cũng tương tự.
"Đó là điểm quan trọng cần lưu ý", TS. Warren Levy, bác sĩ tim mạch và là giám đốc y tế của Trung tâm Tim mạch Virginia, nằm ở miền bắc Virginia (Mỹ) cho biết. "Ngay cả với các yếu tố tiêu cực như béo phì, hút thuốc lá và bệnh tiểu đường, những người béo phì mà chạy thì ít có khả năng tử vong do bệnh tim so với những người béo phì mà không chạy. Tương tự với người hút thuốc lá, bệnh tiểu đường…".
Tốc độ và tần suất thói quen chạy của một người cũng không tạo nên khác biệt lớn. Các dữ liệu cho thấy, những người chạy ít hơn 51 phút, ít hơn 8,4km (6 miles), chậm hơn 8,4km/ giờ, hoặc chỉ chạy một hoặc hai lần mỗi tuần vẫn có nguy cơ tử vong thấp hơn so với những người không mang giày chạy.
D.C Lee, tác giả chính của nghiên cứu và là phó giáo sư tại Khoa Vận động học thuộc Đại học bang Iowa (Mỹ) cho biết, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, những người chạy ít hơn 1 giờ mỗi tuần có cùng “tỷ lệ tử vong” so với những người chạy hơn 3 giờ mỗi tuần. Như vậy nhiều hơn chưa chắc đã tốt hơn.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra sự nhất quán chính là chìa khóa. Họ nhận thấy những người tham gia chạy liên tục trong khoảng thời gian 6 năm trở lên đạt được nhiều lợi ích nhất, với nguy cơ tử vong thấp hơn 50% do bệnh tim hoặc đột quỵ.
Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra những lợi ích của tập thể dục đối với bệnh tim. Tuy nhiên, nghiên cứu này là một trong những nghiên cứu lớn nhất để xác định những tác động tích cực của việc chạy, đặc biệt là cho những người không phải vận động viên điền kinh hay marathon.
"Nghiên cứu này có thể thúc đẩy thêm nhiều người bắt đầu chạy và tiếp tục chạy như là một mục tiêu sức khỏe", Phó giáo sư Lee nói.
Theo Hiệp hội Tim mạch Mỹ, các hoạt động như chạy có thể làm giảm huyết áp, giảm sản xuất glucose, và từ đó làm giảm nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường. Chạy cũng có thể giúp bảo vệ niêm mạc trong cùng của động mạch, giữ cho các thành mạch và các tế bào còn nguyên vẹn, làm giảm nguy cơ tắc nghẽn hoặc cục máu đông có thể gây đột quỵ hoặc nhồi máu cơ tim.
TS. Warren Levy, cũng chính là một người thường xuyên chạy, cho biết những người đang xem xét việc lên chương trình chạy nên nói chuyện với bác sĩ của họ trước, đặc biệt là nếu họ có bệnh mãn tính.

Theo Tiền Phong

Cảnh báo nguy cơ huyết áp cao từ nước ép trái cây

Thưởng thức quá nhiều sinh tố hàng ngày không mang lại lợi ích sức khỏe. Trái lại, nó còn tiềm ẩn mối nguy huyết áp cao.

Nhận định trên được đưa ra bởi các nhà khoa học đến từ ĐH Công nghệ Swinburne Hawthorn (Autralia). Trong quá trình nghiên cứu, họ nhận thấy người thường xuyên dùng nước ép trái cây dễ đối diện với tình trạng đau tim, đau thắt vùng ngực.
Thường xuyên thưởng thức nước ép trái cây khiến bạn dễ đối diện với chứng huyết áp cao.

Về vấn đề này, BS Matthew Pase đánh giá: "Phát hiện có ý nghĩa quan trọng trong nỗ lực cải thiện sức khỏe cộng đồng bởi không ít người tin rằng thường xuyên uống nước ép trái cây tốt cho cơ thể.
Thực tế, nước ép chứa nhiều vitamin thiết yếu song chúng lại chứa lượng đường cao và chất xơ vô cùng khiêm tốn.
Theo đó, uống nước ép trái cây thường xuyên góp phần khiến lượng đường trong cơ thể tăng vọt, chứng huyết áp cao, tim mạch ngày càng tiến triển trầm trọng".
Các nhà khoa học Anh tin rằng, thưởng thức nước ép trái cây còn góp phần không nhỏ trong việc gây ra hiện tượng béo phì, tiểu đường ngày càng phổ biến.
Nó cũng bị đổ lỗi khiến tình trạng sâu răng ở trẻ em ngày càng xuất hiện nhiều. Đặc biệt với những bậc phụ huynh sử dụng nước ép trái cây như một cách thay thế nước uống thông thường.

Tuy nhiên, nó không đồng nghĩa với việc bạn phải "đoạn tuyệt" loại giải khát thơm ngon này. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo bạn vẫn có thể sử dụng nó song cần tính toán sao cho lượng đường không vượt quá sáu muỗng cà phê mỗi ngày là được.


Theo Hải Yến - Kiến thức

Khi nào phải thay van tim?

Nếu van tim bị tổn thương quá nhiều không thể sửa được nữa thì cần được cắt đi và thay thế bằng van tim nhân tạo.

Khi van tim bị tổn thương, tim sẽ bơm máu kém hiệu quả hơn, do vậy tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu giàu ôxy đi nuôi cơ thể.
 
Khi tim phải làm việc quá nhiều có thể dẫn đến bị suy, gây ra khó thở, đau ngực, mệt mỏi và giữ nước lại trong cơ thể gây phù. Nếu các triệu chứng trên xuất hiện, có thể cần phải nong van, sửa van hay thay van tim.
Mỗi một van tim có nhiệm vụ khác nhau
Quả tim của chúng ta có 4 buồng: 2 buồng tim ở phía trên và 2 buồng tim ở phía dưới. Các van tim kiểm soát hướng đi của dòng máu giữa 4 buồng tim. Các buồng tim ở phía trên gọi là tâm nhĩ phải và tâm nhĩ trái; các buồng tim ở phía dưới gọi là tâm thất phải và tâm thất trái.
 
Các tâm nhĩ nhận máu từ các tĩnh mạch trở về tim và bơm máu xuống các tâm thất. Các tâm thất bơm máu ra khỏi tim vào các động mạch. Các van tim giống như các cánh cửa chỉ mở một chiều.
 
Bình thường tim có 4 van:
Van ba lá: ở bên tim phải, cho phép dòng máu chảy từ tâm nhĩ phải xuống tâm thất phải.
Van hai lá: ở bên tim trái, kiểm soát dòng máu chảy từ tâm nhĩ trái xuống tâm thất trái.
Van động mạch phổi: giúp cho máu chỉ đi theo một chiều từ tâm thất phải lên động mạch phổi và từ đó máu được trao đổi ôxy ở phổi.
Van động mạch chủ: giúp cho máu chỉ đi theo một chiều từ tâm thất trái lên động mạch chủ (là động mạch chính đưa máu từ tim đi nuôi cơ thể).
Van ba lá và van hai lá được gắn với tâm thất bởi các cột cơ và dây chằng đặc biệt. Các cột cơ và dây chằng này kiểm soát sự hoạt động của van tim.
Thay van tim
Quả tim sẽ suy yếu khi van tim bị hỏng
Thấp tim là nguyên nhân thường gặp nhất gây bệnh van tim. Thấp tim có thể làm van tim bị viêm, xơ hóa và dày lên theo thời gian làm cho các van tim không thể mở ra hoặc đóng lại một cách bình thường.
 
Một số người bị bệnh van tim từ khi mới sinh nên được sửa hay thay van từ khi còn nhỏ. Các van tim cũng có thể bị tổn thương do nhiễm khuẩn (viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn) hay những bệnh lý khác như vữa xơ động mạch, nhồi máu cơ tim...
 
Van tim bị tổn thương làm hạn chế dòng máu chảy qua van gọi là hẹp van tim. Van tim đóng không kín, làm cho dòng máu chảy ngược lại các buồng tim gọi là hở van tim. Cả hai tổn thương trên thường hay kết hợp với nhau.
Khi van tim bị tổn thương, tim sẽ bơm máu kém hiệu quả hơn, do vậy tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu giàu ôxy đi nuôi cơ thể. Khi tim phải làm việc quá nhiều có thể dẫn đến bị suy, gây ra khó thở, đau ngực, mệt mỏi và giữ nước lại trong cơ thể gây phù. Nếu các triệu chứng trên xuất hiện, có thể cần phải nong van, sửa van hay thay van tim.
Van tim sẽ sửa chữa và thay như thế nào?
Nong van tim bằng bóng qua da: Khi van hai lá, van động mạch phổi và một số trường hợp van động mạch chủ bị hẹp khít đơn thuần (không kèm theo hở van hay chỉ hở van ở mức độ nhẹ) và không có huyết khối ở trong các buồng tim thì các bác sĩ có thể tách các van bị hẹp này bằng bóng qua da.
 
Bác sĩ sẽ luồn một ống thông có gắn quả bóng ở đầu qua da theo đường động mạch hoặc tĩnh mạch đùi vào tới vị trí van tim bị hẹp. Bóng sẽ được bơm căng lên với kích thước đã được lựa chọn trước làm cho van tim bị hẹp được tách rộng ra. Sau đó các dụng cụ sẽ được rút ra ngoài.
 
Phẫu thuật sửa van tim: Khi lá van bị tổn thương, bờ các lá van bị dày lên, co kéo hay khi bị sa lá van làm cho van đóng không kín, hậu quả là làm cho dòng máu có thể phụt ngược trở lại buồng tim.
 
Van hai lá có thể được sửa bằng cách lấy đi phần lá van thừa và khâu phần còn lại với nhau, hoặc bằng cách tạo hình lại các dây chằng. Các phẫu thuật viên có thể đặt thêm một vòng đặc biệt gọi là vòng tạo hình vòng van để làm thu nhỏ lại vòng van bị giãn. Một ưu điểm của phẫu thuật sửa van tim là bệnh nhân vẫn tiếp tục được sử dụng van tim của chính mình.
Phẫu thuật thay van tim: Nếu van tim của bệnh nhân bị tổn thương quá nhiều không thể sửa được nữa thì cần được cắt đi và thay thế bằng van tim nhân tạo. Các van nhân tạo được chia ra thành 2 nhóm: van sinh học và van cơ học (được làm bằng kim loại, hay các chất tổng hợp khác...).
Người bị bệnh van tim hay sau phẫu thuật van tim có nguy cơ bị một nhiễm khuẩn đặc biệt gọi là viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn. Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn xuất hiện khi vi khuẩn xâm nhập vào trong dòng máu và làm loét sùi van tim. Điều đó có thể gây nhiều biến chứng trầm trọng. Bệnh nhân hãy dùng thuốc kháng sinh trước và sau một số thủ thuật như:
Tất cả các thủ thuật có liên quan đến răng miệng, bao gồm lấy cao răng, đánh bóng răng. Để làm giảm vi khuẩn trong miệng, hãy đánh răng và sát khuẩn miệng hàng ngày, kiểm tra răng miệng định kỳ 6-12 tháng một lần.
Bất cứ một phẫu thuật lớn nào; các tiểu phẫu và trong một số trường hợp khác như sinh con; các thủ thuật có gây tổn thương cho tổ chức của cơ thể, như soi bàng quang, thăm trực tràng...
Nguy cơ bị nhiễm khuẩn trong các tình huống này rất nhỏ nếu người bệnh được dùng thuốc kháng sinh. Hãy liên hệ ngay với bác sĩ nếu có bất cứ dấu hiệu nào như sốt, vã mồ hôi, ăn không ngon, sụt cân hay mệt mỏi kéo dài.

Theo PGS.TS Nguyễn Quang Tuấn - Sức khỏe & Đời sống

Thứ Năm, 26 tháng 2, 2015

Tăng huyết áp, kẻ giết người âm thầm

Bệnh tăng huyết áp rất phổ biến ở người trưởng thành và nó được xem là kẻ giết người thầm lặng bởi tính chất âm thầm và các biến chứng nặng nề của nó.

Theo nghiên cứu của Hội Tim mạch Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh tăng huyết áp ở người trưởng thành tại Việt Nam khoảng 25,1%. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 1/3 người trong số đó được điều trị và trong số những người được điều trị chỉ có 1/3 kiểm soát được huyết áp bằng thuốc.
Tăng huyết áp nếu không được điều trị và theo dõi thường xuyên sẽ dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như đột quỵ, suy tim, suy thận, nhồi máu cơ tim, phình tách thành động mạch chủ… có thể gây tử vong hoặc để lại các di chứng nặng nề cho người bệnh.
Khi nào bị tăng huyết áp
Huyết áp lên xuống trong những điều kiện nhất định là bình thường. Tuy nhiên, tăng huyết áp là khi huyết áp của bạn lúc nào cũng cao hơn mức bình thường lúc tim co bóp (tâm thu) lớn hơn 140 mmHg hoặc huyết áp lúc tim dãn ra (tâm trương) lớn hơn 90 mmHg. 
Tăng huyết áp cần được phân biệt với hiện tượng tăng huyết áp "áo choàng trắng". Đó là khi huyết áp thường xuyên tăng lên tại bệnh viện hoặc phòng khám, trong khi đó, huyết áp đo được tại nhà lại là bình thường. 
Hiện tượng tăng huyết áp "áo choàng trằng" chiếm tỷ lệ không nhỏ, khoảng 10-30%. Tuy nhiên, tăng huyết áp áo choàng trắng có thể là khởi đầu của bệnh tăng huyết áp thực sự và có thể làm tăng nguy cơ tim mạch tổng thể.
Phần lớn tăng huyết áp ở người trưởng thành là không rõ nguyên nhân. Chỉ có khoảng 10% tăng huyết áp có nguyên nhân là do hậu quả của bệnh thận cấp hoặc mạn tính, bệnh hẹp động mạch thận, u tủy thượng thận, bệnh lý tuyến giáp, tuyến yên, hội chứng Conn, hội chứng Cushing… 
Bệnh tăng huyết áp diễn ra rất âm thầm, ít có triệu chứng cho đến khi có các biến chứng cụ thể. Vì thế, để phát hiện sớm bị tăng huyết áp, bệnh nhân cần được đo huyết áp định kỳ và đòi hỏi quy trình đo huyết áp phải đúng cách.
Cách đo huyết áp đúng
Trước khi đo huyết áp, nên nghỉ ngơi trong phòng yên tĩnh ít nhất 5-10 phút trước khi đo. Không dùng chất kích thich như cà phê, thuốc lá, rượu bia…trước đó hai giờ. Người được đo huyết áp ngồi ghế tựa, cánh tay duỗi thẳng trên bàn, nếp khuỷu ngang mức với tim. 
Đối với người cao tuổi hoặc có bệnh đái tháo đường nên đo thêm ở tư thế đứng để xác định có hạ huyết áp tư thế đứng hay không. Khi đo cần quấn băng quấn đủ chặt, bờ dưới của bao đo trên nếp lằn khuỷu 2 cm. 
Không nói chuyện khi đang đo huyết áp, không bắt chéo chân. Lần đo đầu tiên cần đo ở cả hai cánh tay, tay nào có con số huyết áp cao hơn sẽ dùng để theo dõi huyết áp về sau. Nên đo huyết áp ít nhất hai lần, mỗi lần cách nhau ít nhất 1-2 phút. 
Nếu số đo huyết áp giữa hai lần chênh nhau trên 10 mmHg thì cần phải đo lại lần sau khi đã nghỉ trên năm phút. Giá trị huyết áp ghi nhận là trung bình của hai lần đo cuối cùng.
Cần thay đổi lối sống
Tăng huyết áp là bệnh mạn tính nên cần theo dõi sát, điều trị liên tục và lâu dài. Tránh trường hợp điều trị một thời gian, thấy huyết áp trở về bình thường thì người bệnh dừng thuốc. Điều trị tăng huyết áp cần cân nhắc riêng cho từng người bệnh, với mục tiêu quan trọng nhất là đạt được huyết áp mục tiêu thấp hơn 140/90 mmHg. Khi đã đạt được mục tiêu vẫn cần được tiếp tục theo dõi và duy trì phác đồ điều trị lâu dài nhằm tránh tăng huyết áp trở lại.
Ngoài cách điều trị bằng thuốc thì việc thay đổi lối sống là biện pháp phòng ngừa tăng huyết áp khá hiệu quả. Việc này được áp dụng cho mọi người bệnh nhằm ngăn ngừa bệnh tiến triển thêm, giảm được huyết áp và giảm lượng thuốc cần dùng.
Trước hết, cần có chế độ ăn hợp lý, giảm ăn mặn (tức dưới 6 g muối mỗi ngày). Cần ăn đủ kali, đặc biệt với người có dùng thuốc lợi tiểu điều trị tăng huyết áp, bằng cách tăng cường rau xanh, hoa quả tươi giàu chất xơ và đạm thực vật. 
Ngoài ra, cần hạn chế thức ăn có nhiều dầu mỡ. Hạn chế uống rượu bia với số lượng dưới hai cốc bia/ngày, dưới hai ly rượu vang (12%) hoặc một ly rượu mạnh (40%). Nếu dùng quá nhiều rượu sẽ làm tăng nguy cơ tai biến mạch máu não, ngược lại nếu dùng lượng rượu thích hợp (như rượu vang đỏ) thì có thể giảm nguy cơ bệnh mạch vành.

Đối với người có cân nặng quá lớn thì cần tích cực giảm cân, duy trì cân nặng lý tưởng với chỉ số khối cơ thể (BMI= cân nặng/(chiều cao)2) là 18,5-22,9 kg/m2. Cố gắng duy trì vòng bụng dưới 90 cm ở nam và 80 cm ở nữ. 
Ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá hoặc thuốc lào. Bên cạnh đó, nên tập thể dục, đi bộ hoặc vận động ở mức độ vừa, đều đặn khoảng 30-60 phút mỗi ngày trong tuần. Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh và cần thư giãn, nghỉ ngơi hợp lý. 
Bệnh nhân bị cao huyết áp dễ lên cơn tăng huyết áp kịch phát dẫn đến tai biến mạch máu não khi thay đổi nhiệt độ đột ngột như khi vào phòng lạnh, khi tắm, hoặc khi ra khỏi nhà trong mùa đông…. Vì vậy, nên tránh bị nhiễm lạnh đột ngột.
Theo BS Ngô Tuấn Anh - BV Quân y 108
Sài Gòn tiếp thị

Món ăn thức uống cho người cao huyết áp

Bệnh tăng huyết áp là nguyên nhân gây tử vong cao nhất trong các bệnh tim mạch, đứng hàng thứ hai sau bệnh ung thư.

Do việc phát hiện và kiểm soát loại bệnh này còn rất hạn chế nên người ta gọi nó là “kẻ giết người thầm lặng”. Chế độ ăn uống cũng như sinh hoạt cho người mang bệnh này cần được chú trọng.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ở người trưởng thành, nếu chỉ số huyết áp từ 140/90 mmHg đến 159/95 mmHg, được coi là tăng huyết áp giới hạn; nếu chỉ số huyết áp cao hơn 160/95 mmHg mới được coi là tăng huyết áp chính thức.
Triệu chứng của tăng huyết áp thường gặp là đau đầu, váng đầu, chóng mặt, hoa mắt, mờ mắt, mất ngủ, ù tai, tim hồi hộp, tay chân có cảm giác tê dại, trí nhớ giảm, mệt mỏi, dễ cáu gắt…
Người bị bệnh tăng huyết áp (đã được thầy thuốc chẩn đoán kỹ lưỡng và xác định có bệnh), cần tuân thủ chế độ điều trị nghiêm ngặt, theo dõi thường xuyên và thực hiện chế độ sinh hoạt, ăn uống thích hợp.

Về chế độ sinh hoạt nên tránh căng thẳng, giảm cường độ công việc, sắp xếp công việc phù hợp, nhẹ nhàng để luôn giữ tâm trạng thoải mái. Tránh những xúc động mạnh như lo lắng, buồn phiền, giận dữ, kinh sợ. Tránh gió lạnh đột ngột, làm việc, nghỉ ngơi điều độ, lành mạnh. 
Bỏ hút thuốc lá, hạn chế bia rượu. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao, dưỡng sinh vừa sức (đi bộ, bơi lội, đi xe đạp, thái cực quyền, yoga…), tập thở chậm và sâu, xoa bóp tay chân, toàn thân…
Một thực đơn với chất đạm từ đậu nành và các loại đậu, thịt nạc (tốt nhất là cá), dầu thực vật (đậu nành, đậu phụng, mè, ô liu, hướng dương) và nhiều rau xanh, củ, quả, hạt, luôn đem lại sự an toàn cho người cao huyết áp. Nên tránh hoặc hạn chế các thức ăn giàu cholesterol, mỗi ngày không nên dùng nhiều hơn 250 mg cholesterol trong các loại thực phẩm.
Như vậy, tốt nhất là nên loại bỏ thức ăn chế biến từ nội tạng động vật, lòng đỏ trứng gà, mỡ động vật, các loại thịt gia súc, gia cầm đóng hộp, một số thủy hải sản (tôm đồng, tôm biển, cua biển, mực…) các loại dăm bông, thịt nguội, da của gia súc, gia cầm, các sản phẩm làm từ sữa béo, từ sô cô la, khoai tây chiên…
Hạn chế dùng các loại thức ăn quá ngọt như kẹo, bánh, mật, kem, chè, sô cô la, trái cây ngọt (sầu riêng, mít, xoài chín, nhãn, vải…). Mỗi ngày, lượng glucose sử dụng tối đa khoảng 10-20g. Muối ăn nên dùng dưới 6 g mỗi ngày.
Những món có ích cho người tăng huyết áp
Món ăn
- Cháo gạo lứt, rau cần, cải bó xôi
Nguyên liệu (NL): Gạo lứt 80g, rau cần tây 100g, cải bó xôi 100g.
Cách làm (CL): Gạo lứt vo sạch; rau cần tây, cải bó xôi rửa sạch, cắt khúc ngắn. Nấu gạo thành cháo rồi cho hai thứ rau vào, nấu sôi 5 phút là được. Ăn nóng lúc đói bụng.
- Cháo cà rốt
NL: Cà rốt 100g, gạo tẻ 100g.
CL: Cà rốt gọt vỏ rửa sạch, cắt miếng nhỏ. Gạo vo sạch, cho hai thứ vào nồi nấu với 1 lít nước, ninh thành cháo nhừ. Ăn nóng vào lúc đói bụng.
- Cháo rau má
NL: Rau má tươi 100g, đậu xanh 50g, gạo tẻ 50g.
CL: Rau má rửa sạch cắt nhỏ, gạo, đậu xanh vo sạch cho vào nồi với lượng nước vừa đủ để nấu thành cháo nhừ. Cho tiếp rau má vào, nấu sôi lại vài phút. Ăn nóng lúc đói bụng với ít muối hoặc đường.
- Cháo đậu xanh, tỏi
NL: Tỏi 20g, đậu xanh 100g (ngâm nước cho mềm), đường phèn 20g, nước 500ml.
CL: Tất cả rửa sạch, đem chưng cách thủy cho đến khi đậu xanh chín.
Dùng cả nước lẫn cái, vào lúc đói bụng. Dùng liên tục 10 ngày.
- Canh cần tây, thịt heo nạc
NL: Rau cần tây 100g, thịt heo nạc 100g, nấm hương (nấm đông cô) 20g, tỏi 5g, ít muối.
CL: Rau cần tây bỏ rễ, chỉ lấy cuống và lá rửa sạch, cắt nhỏ. Nấm hương ngâm nước nóng có chút gừng sau 20 phút thì rửa sạch, cắt nhỏ. Thịt heo nạc rửa sạch, xắt nhỏ (có thể thay bằng bột đậu xanh), tỏi bóc vỏ, đập dập.
Đun sôi nửa lít nước, cho thịt nạc vào, thịt chín thì cho cần tây, nấm hương, tỏi vào quậy đều. Canh sôi lại là được. Ăn nóng lúc đói bụng.
Thức uống
- Trà rau cần, táo đỏ
NL: Trà 3g, rau cần tây 150g, táo đỏ hai trái.
CL: Rau cần tây rửa sạch cắt nhỏ, táo đỏ rửa sạch bỏ hột. Cho tất cả vào nồi nấu với 1 lít nước, sắc còn 750ml, uống thay nước trà trong ngày.
- Nước cà rốt, táo tây
NL: Cà rốt 1 củ, táo tây nửa trái, rau cần tây 30g, nước chanh vắt.
CL: Cà rốt gọt vỏ rửa sạch, cắt nhỏ; táo tây, rau cần tây rửa sạch cắt nhỏ, cho nước chanh vào trộn đều, xay nhuyễn. Dùng uống giải khát.
- Trà hà thủ ô, câu kỷ tử
NL: Hà thủ ô đỏ 15g, câu kỷ tử 10g, thảo quyết minh (hột muồng ngủ) 15g, sơn tra 12g.
CL: Tất cả rửa sạch, cho vào nồi nấu với 1,5 lít nước, sắc còn 1 lít, uống thay nước trà trong ngày (giữ ấm).
- Trà sơn tra, lá sen
NL: Sơn tra tươi 30g (khô 15-20g), lá sen 15g, hoa hòe 6g, thảo quyết minh 20g (sao).
CL: Tất cả rửa sạch cho vào nồi nấu với 1 lít nước, sắc còn 750ml, lấy nước uống thay nước trà trong ngày.

Lương y Đinh Công Bảy - Tổng thư ký Hội Dược liệu TPHCM
Sài Gòn tiếp th

Bệnh tim mạch ngang ngửa ung thư về tỷ lệ tử vong

Báo động được đưa ra tại Hội nghị Tim mạch toàn quốc lần thứ 14 khai mạc sáng 12/10 tại TP.Đà Nẵng do Hội Tim mạch học Việt Nam cùng Quỹ vì sức khỏe tim mạch Việt Nam tổ chức.


Bệnh lý về tim mạch ngày càng phổ biến trong cộng đồng


Chủ đề hội nghị lần này là Tim mạch thời đại mới: Từ phòng thí nghiệm ra cộng đồng, thu hút hơn 2.000 đại biểu, trong đó có gần 100 chuyên gia nước ngoài tham dự.
GS.TS Phạm Gia Khải, Chủ tịch Hội Tim mạch học Việt Nam khẳng địnhbệnh tim mạch đang trở thành gánh nặng cho xã hội với 17,5 triệu người tử vong trên thế giới hằng năm, làm tiêu tốn hàng trăm tỉ USD mỗi năm cho chi phí chăm sóc, điều trị, đặc biệt trong 5 năm gần đây bệnh tim mạch dần vượt lên, đứng ngang ngửa bệnh ung thư về tỷ lệ tử vong.
Theo dự đoán của Hội Tim mạch thế giới, đến năm 2017 Việt Nam sẽ có 20% dân số mắc bệnh tim mạch và tăng huyết áp, đáng báo động là những năm gần đây bệnh lý tăng huyết áp đang trẻ hóa với rất nhiều đối tượng trong độ tuổi lao động và tỷ lệ tăng huyết áp của những người từ 25 tuổi trở lên ở Việt Nam đã là 25,1%.
Từ nay đến ngày 14/10, hội nghị đưa ra gần 1.000 báo cáo chuyên môn của các chuyên gia tim mạch hàng đầu trong và ngoài nước. Hội nghị Tim mạch toàn quốc lần 14 này cập nhật các nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực tim mạch học như chẩn đoán hình ảnh, các xu hướng phẫu thuật mới, can thiệp động mạch ngoại vi và cấu trúc tim, kháng ngừng tập tiểu cầu cho can thiệp động mạch vành…
Bên lề hội nghị là các hoạt động vì cộng đồng như khám, cấp thuốc miễn phí cho đồng bào dân tộc thiểu số huyện Hòa Vang, TP.Đà Nẵng, đi bộ cổ động lối sống lành mạnh phòng ngừa bệnh tim mạch và tường thuật trực tiếp các ca can thiệp qua đường ống thông (ngày 13/10 tại BV Đà Nẵng).

Theo Nguyễn Tú - Thanh niên

Mối liên hệ giữa bệnh đái tháo đường, tim mạch

Khi kháng insuline và đái tháo đường (ĐTĐ) ở người bệnh có kèm theo các yếu tố như béo phì, tăng huyết áp, tăng cholesterole và triglyceride, nguy cơ bị bệnh tim mạch và tai biến mạch não tăng hơn

Những nguy cơ cao của bệnh nhân ĐTĐ
Bệnh nhân đái tháo đường có nguy cơ cao mắc các bệnh tim mạch như bệnh mạch vành (bao gồm nhồi máu cơ tim), tai biến mạch não, và bệnh mạch ngoại biên. Thực tế, trên 65% bệnh nhân đái đường chết do bệnh tim mạch. 
Đái đường nếu không được điều trị sẽ dẫn tới nhiều tác hại đối với sức khoẻ, như bệnh tim, tai biến mạch não, mù loà, bệnh thận, bệnh thần kinh... Tỷ lệ chết do bệnh tim mạch ở người có bệnh đái đường cao gấp 2 đến 4 lần so với người không mắc đái tháo đường. Nguy cơ bị tai biến mạch máu não cũng tăng 2 đến 4 lần ở những bệnh nhân đái tháo đường.
Mối liên hệ giữa bệnh đái tháo đường, tim mạch
Tập thể dục để giảm cân là cách phòng bệnh tốt nhất.
Bệnh nhân đái tháo đường khi bị nhồi máu cơ tim thường nặng hơn và có nguy cơ tử vong cao hơn người không bị đái tháo đường.
Bệnh nhân đái tháo đường có xu hướng bị giảm HDL cholesterol (yếu tố có lợi) và tăng glyceride, tăng LDL cholesterol (yếu tố có hại). Điều này làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não.
Làm gì để giảm nguy cơ bị tai biến và nhồi máu cơ tim?
Thay đổi thói quen sống: Đó là thay đổi chế độ ăn uống, chế độ vận động, giảm hoặc bỏ các thói quen sinh hoạt không có lợi như hút thuốc, uống rượu…
Điều trị nội khoa bằng thuốc: kiểm soát tốt đường máu và các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu.
Hoạt động thể lực: hoạt động thể lực thường xuyên giúp làm giảm tỷ lệ kháng insulin. Điều này có nghĩa là, cơ thể bạn sử dụng insulin hiệu quả hơn.
Giảm cân nếu bạn cần: Khi quá cân thì việc giảm cân có thể làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch. Trọng lượng giảm giúp làm giảm nguy cơ kháng Insulin, tỷ lệ mỡ cơ thể và tăng huyết áp. Ăn thức ăn ít mỡ bão hoà và mỡ chuyển dạng giảm calo, tăng hoạt động thể lực giúp bạn giảm cân và duy trì trọng lượng lý tưởng.
Điều trị bệnh
Bệnh tiểu đường nếu không được theo dõi và điều trị sẽ gây ra các biến chứng nghiệm trọng, như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, suy thận. Thậm trí nếu đường máu quá cao có thể gây hôm mê do tăng áp lực thẩm thấu máu hoặc nhiễm acid máu (toan ceton). Do vậy việc điều trị nhằm kiểm soát đường máu và điều trị các yếu tố nguy cơ là rất quan trọng để phòng ngừa biến chứng.
Kiểm soát đường máu: bằng thực hiện chế độ ăn cho người bị tiểu đường, vận động và dung thuốc. Tiểu đường type I, bệnh nhân được chỉ định tiêm Insulin hàng ngày để kiểm soát đường máu. 
Với tiểu đường type II, đa phần điều trị bằng thuốc uống, có thể một hoặc vài loại thuốc kết hợp với nhau, khi kết hợp thuốc tối đa mà không kiểm soát được đường máu thì phải tiêm Insulin như điều trị tiểu đường type I. Theo dõi đường máu thường xuyên để điều chỉnh thuốc hạ đường máu.
Điều trị các yếu tố nguy cơ kèm theo: đặc biệt là tăng huyết áp và rối loạn mỡ máu. Thuốc điều trị tăng huyết áp được chỉ định khí HA > 130/80mmHg (với người không bị tiểu đường là > 140/90mmHg). Thuốc điều trị tăng mỡ máu thường là nhóm statin.

Theo ThS Văn Đức Hạnh - Sức khỏe và Đời sống

Biểu hiện thường gặp của suy tim

Suy tim là tình trạng bệnh lý co bóp của trái tim không đạt hiệu quả như mong muốn, theo nhu cầu của cơ thể.

Đây là một bệnh khá phổ biến và rất nguy hiểm. Cần đi khám ngay nếu có các biểu hiện nghi ngờ, bất thường hoặc khi các dấu hiệu suy tim nặng lên. Đối với suy tim, điều trị càng sớm càng dễ dàng và có hiệu quả cao.
Suy tim là gì?
Thuật ngữ “Suy tim” nhằm để chỉ tình trạng co bóp của trái tim không đạt hiệu quả như mong muốn, theo nhu cầu của cơ thể. Bản thân suy timkhông phải là một bệnh mà là hậu quả do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. 
Trong đại đa số các trường hợp, suy tim là tình trạng giảm khả năng co bóp của quả tim dẫn đến giảm lưu lượng máu đến các cơ quan trong cơ thể, đồng thời gây ứ trệ nước tại các cơ quan, nên được gọi là suy tim ứ huyết (ứ máu).
Nguyên nhân gây suy tim
Có nhiều nguyên nhân gây suy tim, do: thiếu máu cục bộ cơ tim, bệnh van tim, tim bẩm sinh, bệnh cơ tim, bệnh màng ngoài tim, tăng huyết áp mạn tính, loạn nhịp tim, hay suy tim do bệnh phổi mạn tính… 
Ngoài ra còn một số các nguyên nhân khác như suy tim do thừa dịch, chẳng hạn trong một số trường hợp lượng dịch bị ứ lại trong hệ thống tuần hoàn quá nhiều làm tim quá tải gây suy tim hay do thiếu vitamin B1, người nghiện rượu, người suy dinh dưỡng… cũng có nguy cơ bị suy tim. 
Tuy nhiên trong thực tế tại các nơi khám bệnh, khoảng 40% các trường hợp suy tim không thể tìm được một nguyên nhân cụ thể nào.
Biểu hiện thường gặp của suy tim
Các biểu hiện thường gặp
Các biểu hiện của suy tim mà bệnh nhân có thể nhận biết được.
Khó thở: cảm giác hụt hơi, thiếu không khí, ngột thở. Đây triệu chứng sớm nhất và thường gặp nhất. Trong suy tim cấp thì khó thở xuất hiện đột ngột và nặng lên nhanh chóng nếu không được điều trị kịp thời. 
Còn trong suy tim mạn tính thì biểu hiện khó thở tùy thuộc vào mức độ và tiến triển của suy tim. Ban đầu khó thở chỉ xuất hiện khi gắng sức như leo cầu thang, đi bộ một quãng đường dài, mang vác vật nặng hoặc khi sinh hoạt tình dục. Về sau khó thở xuất hiện thường xuyên hơn, ngay cả khi nghỉ ngơi, thậm chí là khi ngủ làm cho người bệnh phải ngồi dậy để thở.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, khó thở không phải là triệu chứng chỉ có khi bị suy tim, mà còn là biểu hiện trong nhiều bệnh khác. Bởi vậy, trên thực tế nhiều khi rất khó phân biệt được chính xác nguyên nhân của các dấu hiệu trên là do suy tim hay do bệnh ở phổi hoặc do tình trạng bệnh lý khác.
Triệu chứng phù
Biểu hiện phù trong suy tim là hậu quả của ứ trệ nước trong cơ thể. Do khi tim suy, sức co bóp của cơ tim giảm, máu đến các cơ quan trong cơ thể không đầy đủ như lúc bình thường cũng như không lưu chuyển lại tim và dẫn tới ứ dịch ở các mô mềm gây ra phù. Bên cạnh đó, khi lượng máu đến thận không đủ, cơ quan này sẽ tiết ra các chất gây giữ lại nước và muối trong cơ thể.
Ban đầu, phù thường kín đáo ở mắt cá hoặc mu chân, với đặc điểm là mềm ấn ngón tay sẽ lõm và khi bỏ ngón tay ra vết lõm tồn tại lâu mới hồi phục, phù rõ về cuối ngày và nhẹ về sáng sớm (khác với phù do bệnh thận là phù rõ vào buổi sáng). Khi bệnh tiến triển mà không được phát hiện và điều trị kịp thời, phù sẽ tăng dần và rất dễ nhận biết.Phù thường đi kèm với khó thở.
Các biểu hiện khác:
Mệt mỏi, làm việc gắng sức rất dễ mệt cũng thường gặp (có thể lẫn với các bệnh khác) do suy tim dẫn tới không cung cấp đủ ôxy nuôi dưỡng cơ thể; Hay khó ngủ về đêm vì khó thở, ho kéo dài không có đờm, đi tiểu nhiều về đêm, chướng bụng, chán ăn, suy giảm trí nhớ… cũng có thể là các dấu hiệu của suy tim.
Điều trị
Ban đầu điều trị suy tim nhằm mục đích giảm triệu chứng của suy tim (chủ yếu là khó thở và phù). Tùy thuộc vào mức độ và giai đoạn của suy tim, các bác sỹ sẽ chỉ dùng thuốc hoặc có thêm các biện pháp hỗ trợ tích cực như thở ôxy, hỗ trợ hô hấp bằng máy thở.
Điều trị căn nguyên gây suy tim, cùng với việc điều trị triệu chứng. Việc điều trị nguyên nhân rất quan trọng, có thể tiến hành ngay nếu có thể (suy tim do truyền nhiều dịch, do tràn dịch màng ngoài tim, rối loạn nhịp tim cấp, thiếu vitamin B1, suy hoặc cường chức năng tuyến giáp…), hoặc sau khi triệu chứng suy tim đã ổn định và tình trạng bệnh nhân cho phép. Ví dụ: nếu do hở hay hẹp van tim thì có thể mổ thay hoặc sửa van tim…
Lời khuyên đối với bệnh nhân bị suy tim
Về chế độ ăn: Cần giảm muối (giảm mặn, không mì chính...) vì ăn nhiều muối sẽ gây giữ nước và phù. Nên tránh mì chính, bột ngọt (là một dạng muối), các đồ chế biến sẵn. Lựa chọn các thức ăn có ít muối. 
Lượng muối trung bình một ngày không nên quá 2 gam; Hạn chế lượng nước (uống và ăn vào cơ thể) nhất là khi bệnh nặng; Chú ý đến chế độ ăn giảm cân nếu bị béo phì; Không uống rượu đặc biệt đối với bệnh nhân suy tim do rượu; Không hút thuốc lá.
Về tập luyện, hoạt động thể lực phải phù hợp, tránh gây quá tải cho tim, nên theo lời khuyên của bác sỹ. Không nên chỉ ngồi một chỗ vì suy tim làm ứ máu, nếu không vận động sẽ khiến dễ bị tắc mạch hơn. 
Tuy nhiên, không giống như các cơ bắp khác, hoạt động nhiều không làm tim khoẻ hơn mà có thể còn có hại nếu quá mức. Tốt nhất là tuân thủ chế độ hoạt động thể lực theo lời khuyên của bác sĩ. 
Biện pháp dễ làm nhất và có hiệu quả là đi bộ, bắt đầu từ từ và tăng dần.Dừng ngay các hoạt động thể lực như bơi, đi bộ nhanh, mang vác vật nặng hoặc sinh hoạt tình dục mà thấy hơi khó thở, đau ngực hoặc hoa mắt.
Theo dõi cân nặng, tăng cân là dấu hiệu sớm cho biết tình trạng ứ nước trong cơ thể, suy tim nặng lên.
Uống thuốc đều theo đơn: Không tự ý ngừng thuốc hoặc thay đổi liều lượng nếu không có chỉ dẫn của bác sĩ.
Đi khám ngay: Nếu có các biểu hiện bất thường hoặc khi các dấu hiệu suy tim nặng lên. Đối với suy tim, điều trị càng sớm càng dễ dàng và càng hiệu quả.

Theo PGS.TS Phạm Mạnh Hùng - Sức khỏe và Đời sống

Cách đơn giản giảm huyết áp tại nhà

Nếu bạn bị đau đầu, tim đập nhanh, mạch nhanh và ù tai, kiểm tra huyết áp thấy ở mức cao thì không nên sợ hãi.

Chu kỳ tăng huyết áp ở mỗi người có thể do mệt mỏi, thiếu ngủ, stress hoặc lạm dụng rượu. Hãy bình tĩnh dùng những cách đơn giản mà hiệu quả sau đây để tự làm giảm huyết áp ngay tại nhà.
- Hãy nằm ở tư thế thoải mái, thư giãn và thở đều, chậm rãi, bình tĩnh và không nghĩ ngợi, giữ các nhịp thở ra trong 7 giây. Sau khi thực hiện khoảng 3 phút sẽ thấy dễ chịu hơn.
- Nếu nguyên nhân làm tăng huyết áp là stress thì cần loại trừ adrenaline ra khỏi cơ thể bởi nó kích thích phát sinh tình trạng tăng huyết áp. Cách tốt nhất để xả stress là tản bộ hoặc thực hiện các bài tập luyện như mô phỏng động tác leo núi.
Lưu ý không nên bơi trong tình trạng huyết áp đang tăng cao, cũng như không tắm nước lạnh vì sẽ làm nén các mạch máu đã bị co lại, làm chậm sự lưu thông máu và suy giảm sức khỏe.
- Không nên tắm nước nóng nhất là vùng cổ, gáy. Nếu muốn thì có thể tắm nước ấm khoảng 45 độ. Nước ấm sẽ làm nhẹ nhõm bởi làm cho mạch máu giãn nở và sự tuần hoàn máu được điều hòa.
- Có thể nhờ người khác mát xa nhẹ, bắt đầu từ vùng dưới cằm, sau đó thì chuyển dần đến cổ, gáy và phần trên ngực.
- Uống trà có tinh dầu thơm và bạc hà có tác dụng an thần và thư giãn. Tuy nhiên đừng quên các loại thảo dược làm hạ huyết áp, trong đó có cây việt quất, tầm gửi trắng, táo gai và dâu đất, có thể uống các loại nước ép trên hàng ngày với mục đích phòng ngừa.
- Sử dụng các loại thuốc chuyên dụng được chỉ định để giảm nhẹ huyết áp. Lưu trữ trong tủ thuốc gia đình loại thuốc giảm nhanh trong trường hợp tăng huyết áp đột ngột.
Một số bệnh nhân huyết áp cho rằng khi giao tiếp với vật nuôi cũng giúp họ thấy nhẹ nhõm dễ chịu hơn. Khi cần thiết mới sử dụng các loại thuốc đã được kiểm định và chỉ được dùng theo đơn của bác sĩ.
Theo Bích Yến - Nông nghiệp Việt Nam/ Sức khỏe

Cà rốt giúp ngăn ngừa ung thư và bệnh tim mạch hiệu quả

Cà rốt là một trong những loại rau quý nhất được các các thầy thuốc trên thế giới đánh giá cao về giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh cho con người.

Cà rốt là một nguồn giàu các chất dinh dưỡng không chứa cholesterol. Nên nó là một lựa chọn tốt và đơn giản để bảo vệ sức khỏe của bạn. Nó cũng cung cấp lượng chất xơ cần thiết cho cơ thể của bạn.
Cà rốt giúp ngăn ngừa ung thư và bệnh tim mạch hiệu quả
Cà rốt giúp ngăn ngừa ung thư và bệnh tim mạch hiệu quả.
Cà rốt là một trong những loại rau quý nhất được các các thầy thuốc trên thế giới đánh giá cao về giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh đối với con người. Cà rốt giàu về lượng đường và các loại vitamin cũng như năng lượng.
Các dạng đường tập trung ở lớp vỏ và thịt nạc của củ; phần lõi rất ít. Vì vậy củ cà rốt có lớp vỏ dày, lõi nhỏ mới là củ tốt. Trong 100g ăn được của Cà rốt, theo tỷ lệ % có: nước 88,5; protid 1,5; glucid 8,8; cellulose 1,2; chất tro 0,8.
Muối khoáng có trong Cà rốt như kalium, calcium, sắt, phosphor, đồng, bor, brom, mangan, magnesium, molipden... Đường trong Cà rốt chủ yếu là đường đơn (như fructose, glucose) chiếm tới 50% tổng lượng đường có trong củ, là loại đường dễ bị oxy hoá dưới tác dụng của các enzym trong cơ thể; các loại đường như levulose và dextrose được hấp thụ trực tiếp.
Trong Cà rốt có rất nhiều vitamin C, D, E và các vitamin nhóm B; ngoài ra, nó còn chứa nhiều chất caroten (cao hơn ở Cà chua); sau khi vào cơ thể, chất này sẽ chuyển hoá dần thành vitamin A, vitamin của sự sinh trưởng và tuổi trẻ.
Từ hạt Cà rốt, người ta chiết xuất được chất Docarin (còn gọi là cao hạt Cà rốt).
Ngăn ngừa bệnh tim mạch
Nghiên cứu cho thấy, ăn cà rốt hàng ngày sẽ giúp giữ mức cholesterol ổn định. Vậy nên cà rốt giúp ngăn ngừa bệnh tim mạch. Do đó, cà rốt thường xuất hiện nhiều trong thực đơn của những người đã bị đột quỵ trong quá khứ hoặc đang mắc bệnh tim mạch.
Ngăn ngừa ung thư
Beta-carotene trong cà rốt giúp ngăn ngừa ung thư phổi và ung thư ruột kết. Các nghiên cứu cũng cho thấy, phụ nữ ăn cà rốt thường xuyên ít có khả năng phát triển ung thư vú.
AloBacsi.vn
Theo Phụ nữ today/ Khỏe và Đẹp

Đường - kẻ thù của huyết áp cao

Các nhà nghiên cứu thuộc Trường ĐH New York và Kansas, đứng đầu là TS James DiNicolantonio cho biết: "Đường mới thực sự là yếu tố nguyên nhân của tăng huyết áp".
Nhận xét này dựa trên một phân tích tổng hợp các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (những nghiên cứu quy mô lớn với trên 8.670 người tham gia) cho thấy, đường có liên quan mạnh mẽ với huyết áp ở người hơn là muối.
Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng, đường có thể khiến cơ thể sản sinh nhiều hormon insulin hơn, cũng có thể đẩy nhanh nhịp tim.
GS Graham McGregor - chuyên gia tim mạch tại Trường ĐH London cho rằng: "Trung bình một người lớn ở Anh ăn tới 15 thìa đường mỗi ngày, phần lớn là do lượng đường cao trong nước trái cây, sữa chua, bánh mỳ gối và các đồ ăn sẵn khác".
Các chuyên gia lo ngại rằng, đường đứng sau sự gia tăng của sâu răng ở trẻ em và ảnh hưởng tới khả năng học tập của trẻ.

Theo Lan Minh - Sức khỏe và đời sống

Bạn biết gì về bệnh tim?

Bệnh tim mạch là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Làm cách nào để phát hiện sớm các bệnh về tim.


Dăm bảy đường bệnh

Với bác sĩ, bệnh tim là một từ quá chung chung. 

Giới khoa học chia ra và phân biệt rõ các loại bệnh tim, thường gồm 6 loại: Bệnh động mạch vành, hay còn gọi là bệnh thiếu máu cơ tim, nếu trầm trọng thì xảy ra nhồi máu cơ tim (vẫn thường gọi là cơn đau tim); bệnh van tim (bệnh hẹp van hai lá, hẹp van động mạch chủ, hở van hai lá,...); rối loạn nhịp tim (rung nhĩ, nhịp nhanh kịch phát trên thất, ngoại tâm thu,...); bệnh cơ tim; bệnh tim bẩm sinh (thông liên thất, thông liên nhĩ, còn ống động mạch,...); suy tim.
Riêng tăng huyết áp được xếp là bệnh mạch máu (động mạch), không phảibệnh tim.
Cách phân biệt bệnh tim là theo từng nguyên nhân gây bệnh. Tìm đúng nguyên nhân gây bệnh tim, "thấy mặt đặt tên" cho nó thì mới có thể chỉ định những cách chữa trị hoặc chung sống với bệnh một cách phù hợp.
Có thể bạn không biết...
Chuyện một phụ nữ "chết hụt" khi tắm trắng khiến các bà các cô xôn xao lo lắng. Nhưng đến bệnh viện, qua kiểm tra, bác sĩ phát hiện nguyên nhân chính là do cô gái bị bệnh tim bẩm sinh.
Và việc thoa kem kín mít toàn thân khiến mồ hôi không thoát ra được, gây mệt, bệnh tim phát tác gây ảnh hưởng đến sức khỏe của cô ấy. Đọc tin này không ít người giật mình: Liệu mình có mắc bệnh tim mà không biết?
Nếu bạn là người có những triệu chứng như môi tím, đầu ngón tay tím, hay mệt, khó thở, thỉnh thoảng hồi hộp, tim đập nhanh, nặng ngực... thì phải nhanh chóng đi kiểm tra tim mạch.
Cũng có nhiều trường hợp triệu chứng rất nhẹ, chỉ thoáng qua, không rõ ràng, bạn không chú ý, đến khi bệnh tim có điều kiện "vùng lên", bạn rất dễ "gục" vì không đề phòng trước.
Tốt hơn hết, bạn nên khám sức khỏe định kỳ để nếu phát hiện bệnh tim thì tìm cách xử lý sớm, hoặc ít nhất cũng biết để "lượng sức mình" trong sinh hoạt thường ngày. Để sàng lọc bệnh tim mạch, bác sĩ sẽ chỉ định làm các cận lâm sàng sau:
Điện tâm đồ: Giúp phát hiện rối loạn nhịp, thiếu máu cơ tim, dày thất...
X quang tim phổi: Giúp đánh giá bóng tim có to không, các cung tim có bất thường hay không và có tổn thương phổi do tim gây ra hay không.
Siêu âm tim: Khảo sát van tim, buồng tim, co bóp của thành tim, mức độ suy tim, phát hiện các dị tật bẩm sinh về tim.
Ngoài ra, có thể làm một số xét nghiệm cơ bản để tầm soát nguy cơ bệnh tim mạch: xét nghiệm mỡ máu (Cholesterol, Cholesterol có lợi, Cholesterol có hại, Triglyceride), đường huyết lúc đói, công thức máu; tổng phân tích nước tiểu, chức năng thận,...
Những nghiệm pháp quan trọng về tim
Tùy theo nhận định của bác sĩ, khi phát hiện bạn mắc các bệnh về tim mạch, họ sẽ áp dụng thêm một số kỹ thuật, nghiệm pháp tim mạch giúp thăm dò tim mạch sâu hơn.
Điện tâm đồ gắng sức: Là một nghiệm pháp theo dõi thay đổi điện tim trong suốt quá trình gắng sức. Bạn được hướng dẫn đạp xe đạp và tăng mức gắng sức lên dần.
Bác sĩ sẽ theo dõi khi gắng sức hết mức như vậy có lộ ra những dấu hiệu thiếu máu cơ tim trên điện tâm đồ hay không (vì nhiều trường hợp thiếu máu cơ tim mức độ nhẹ và vừa sẽ không thấy dấu hiệu gì trên điện tâm đồ bình thường).
Điện tâm đồ gắng sức là một nghiệm pháp góp phần giúp chẩn đoán thiếu máu cơ tim.
Siêu âm tim gắng sức: Về mặt ý nghĩa, siêu âm tim gắng sức cũng tương tự như điện tâm đồ gắng sức.
Bạn được truyền một loại thuốc làm tăng nhịp tim từng bước, bác sĩ sẽ siêu âm khảo sát xem có rối loạn vận động của cơ tim khi tim tăng hoạt động dần dần đến tối đa, nhằm kết luận về bệnh thiếu máu cơ tim.
Siêu âm tim gắng sức cũng là một nghiệm pháp góp phần giúp chẩn đoán thiếu máu cơ tim.
Holter huyết áp: Là một máy đo huyết áp liên tục suốt 24 giờ, giúp đánh giá huyết áp trong ngày, kể cả thời gian bạn làm việc ở cơ quan, thời gian bạn ở nhà và thời gian bạn ngủ. Máy gọn nhẹ như máy điện thoại, có thể mang về nhà.
Holter huyết áp giúp nhận định các trường hợp nghi ngờ có cao huyết áp, hiện tượng "áo choàng trắng" hoặc đánh giá hiệu quả thuốc hạ áp trong những trường hợp cao huyết áp phức tạp, khó điều trị.
Holter nhịp tim: Là một máy nhỏ gọn hơn cả Holter huyết áp, giúp theo dõi nhịp tim liên tục trong suốt 24 giờ. Công cụ này giúp nhận định chính xác các trường hợp rối loạn nhịp tim mà điện tâm đồ bình thường có thể bỏ sót không thể ghi nhận được.
Việc ghi điện tim liên tục 24 giờ giúp phát hiện những trường hợp rối loạn nhịp nguy hiểm.
CT tim: Giúp phát hiện vôi hóa mạch vành, khảo sát các mạch máu lớn của tim, khảo sát các cầu nối sau phẫu thuật bắc cầu, đánh giá bất thường các buồng tim, thành tim, các bệnh tim bẩm sinh.
MRI tim: Giúp đánh giá tưới máu cơ tim, tính sống còn cơ tim, nhất là các trường hợp tắc động mạch vành, nhồi máu cơ tim, MRI tim cũng giúp kiểm tra kích thước buồng tim và độ dày thành tim, khảo sát các mạch máu chính của tim.
Nghiệm pháp bàn nghiêng: Là một nghiệm pháp đặc biệt giúp chẩn đoán nguyên nhân của các trường hợp ngất tái diễn không rõ nguyên nhân. Nghiệm pháp này sẽ giúp xác định các trường hợp ngất do phản xạ nhạy cảm bất thường của hệ tuần hoàn.
Cần lưu ý, khi chưa có triệu chứng rõ ràng liên quan bệnh tim mạch nhưng có các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch, như quá cân, tiền sử gia đình có người mắc bệnh tim, công việc nhiều căng thẳng, stress,... thì bạn nên gặp bác sĩ để được tư vấn làm các nghiệm pháp cần thiết để tầm soát các bệnh về tim.

Xử lý khi lên cơn đau tim
Nếu là một cơn đau ngực nhẹ: nằm nghỉ ngơi, tránh gắng sức, dùng thuốc giãn vành theo hướng dẫn của bác sĩ tim mạch.
Nếu là một cơn đau tim của nhồi máu cơ tim cấp: Nằm nghỉ tuyệt đối, ngậm Nitro glycerin dưới lưỡi và gọi xe cấp cứu đến bệnh viện càng sớm càng tốt.
6 tiếng đồng hồ kể từ lúc khởi phát cơn đau tim được gọi là thời gian vàng để can thiệp tái thông chỗ hẹp tắc động mạch vành, cứu sống được vùng cơ tim đang nguy kịch.

Theo BS Vũ Minh Đức - Phòng khám đa khoa Quốc tế Yersin
Doanh nhân Sài Gòn

Dị tật tim bẩm sinh

Dị tật bẩm sinh là những dị tật được hình thành từ trong thời kỳ bào thai và thường tồn tại từ khi trẻ được sinh ra.

Trong thời kỳ này thai nhi hình thành và phát triển trong buồng tử cung mẹ, quá trình hình thành, phát triển của quả tim và mạch máu lớn không diễn ra bình thường sẽ gây ra dị tật.
Vì sao trái tim bị khuyết tật bẩm sinh?
Các yếu tố gây rối loạn quá trình hình thành của quả tim và mạch máu (trong 3 tháng đầu của thai nhi) có nguy cơ gây ra những khiếm khuyết về hình thái và cấu trúc của tim và mạch máu, tạo ra các khuyết tật bẩm sinh. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, chúng ta không biết nguyên nhân gì gây ra dị tật. Do vậy đừng cho rằng con mang dị tật tim bẩm sinh là lỗi của cha mẹ. Các yếu tố đã được chứng minh có liên quan tới khuyết tật tim bẩm sinh bao gồm:
Người mẹ bị nhiễm virut trong những tuần đầu khi mang thai (trong 3 tháng đầu), thì đứa trẻ có thể mang những dị tật ở tim hoặc các bộ phận khác. Ví dụ, nếu một bà mẹ bị nhiễm sởi Đức (rubella) trong thời kỳ mang thai (trước 20 tuần) thì virut có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tim của thai nhi hoặc có thể gây ra những bất thường về cấu trúc của các cơ quan khác như mắt, tai, não.
Dị tật tim bẩm sinh
Dị tật về tim khiến trẻ gặp khó khăn trong hô hấp và ảnh hưởng đến sự phát triển.
Một số thuốc được người mẹ dùng không có chỉ định của bác sĩ, uống rượu, tiếp xúc với các hóa chất độc hại (thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật) trong thời kỳ mang thai cũng có thể làm tăng nguy cơ sinh con mắc dị tật tim…
Yếu tố di truyền cũng đóng vai trò trong việc hình thành các dị tật tim bẩm sinh. Có thể có nhiều đứa trẻ trong cùng một gia đình cùng mắc dị tật bẩm sinh, nhưng điều này là rất hiếm khi xảy ra.
Một số đột biến về gen hoặc nhiễm sắc thể đặc biệt ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong đó có tim. Ví dụ như hội chứng Down (hội chứng Đao), trẻ có khuôn mặt điển hình của bệnh, trí tuệ thường chậm phát triển và thường có các dị tật tại tim.
Còn rất nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển của tim và vấn đề này vẫn đang được nghiên cứu.
Tỷ lệ mắc các dị tật tim bẩm sinh
Ước tính có gần 1% trong những đứa trẻ sinh ra còn sống có thể bị mắc dị tật ở tim. Có những dị tật ít ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ nên không biểu hiện rõ mà chỉ tình cờ được phát hiện sau đó.Nhưng cũng có trường hợp quá nặng nề tới mức làm cho đứa trẻ rất ốm yếu ngay từ sau khi sinh.Ngược lại một số trường hợp, các dấu hiệu của bệnh chỉ biểu hiện khi đứa trẻ đã lớn hơn.
Tại Mỹ, trung bình mỗi năm có khoảng 36.000 trẻ được sinh ra có dị tật tim. Hầu hết những đứa trẻ này có thể được cứu chữa sớm bằng can thiệp hoặc phẫu thuật, thậm chí là cả với các dị tật rất nặng nề.
Những yếu tố liên quan đến dị tật tim bẩm sinh
Thường xảy ra với người có nhu cầu năng lượng cao; tim đập nhanh; thở nhanh; giảm ôxy máu; giảm hấp thu thức ăn do thở nhanh và mệt mỏi; giảm hấp thu chất dinh dưỡng từ ống tiêu hóa; nhiễm trùng hô hấp thường xuyên (viêm phế quản, viêm phổi).
Sự phát triển của trẻ cũng có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố di truyền hoặc gen. Một số bệnh như hội chứng Down (ba nhiễm sắc thể số 21) có hình dạng biểu đồ tăng trưởng khác. Nguyên nhân phổ biến nhất khiến trẻ tăng trưởng chậm là trẻ không ăn đủ năng lượng và chất dinh dưỡng. Nhưng thậm chí là nếu như trẻ có vẻ dùng đủ sữa bột hoặc sữa mẹ thì vẫn có thể tăng cân rất chậm do nhu cầu năng lượng tăng hơn bình thường. Trẻ cần được cân mỗi tháng một lần. Những con số cân nặng này sẽ cho biết mức độ tăng trưởng của trẻ.
Điều trị dị tật tim bẩm sinh
Phẫu thuật:
Phương pháp đòi hỏi phải mở phanh lồng ngực, hầu hết các cuộc mổ tim đều cần phải truyền máu. Lượng máu cần truyền phụ thuộc vào phương pháp mổ.Nhưng hiện nay dự trữ máu tại các bệnh viện thường không đủ, do đó gia đình có trẻ phẫu thuật cần một số người cho máu để thay thế cho lượng máu mà trẻ cần dùng. Việc xét nghiệm và xử lý máu sau khi lấy có thể mất thời gian nên gia đình có thể yên tâm do máu sẽ dùng cho trẻ đã được kiểm tra rất kỹ lưỡng về tương thích nhóm máu cũng như là sàng lọc loại trừ các bệnh lây qua đường máu, bao gồm cả bệnh AIDS.
Can thiệp bằng phương pháp thông tim:
Những bệnh tim bẩm sinh có thể can thiệp được bằng phương pháp này là: Thông liên nhĩ lỗ thứ hai; còn ống động mạch; thông liên thất; hẹp van động mạch phổi, hẹp van động mạch chủ; hẹp eo động mạch chủ…
Các thầy thuốc sẽ đưa một ống nhỏ và dài qua các mạch máu ở ngoài để đưa đến bên trong quả tim, rồi qua đó đo đạc các thông số huyết động để đánh giá mức độ rối loạn, đồng thời đưa các thiết bị để sửa chữa các khuyết tật bẩm sinh. Phương pháp này ngày càng phát triển, vì có nhiều ưu thế như không phải mổ phanh, thời gian hồi phục nhanh, ít gây nhiễm khuẩn và không mất máu nhiều nên hiếm khi phải truyền máu.Tuy nhiên đây là phương pháp có giá thành còn cao hơn so với phẫu thuật, hơn nữa không phải loại dị tật nào cũng có thể điều trị được bằng phương pháp này.
Ngoài ra còn rất nhiều dị tật khác có thể can thiệp được một cách tạm thời để chờ một cuộc phẫu thuật toàn bộ, như phá vách liên nhĩ trong bệnh teo tịt van động mạch phổi mà vách liên thất kín, đặt stent ống động mạch duy trì dòng máu sang động mạch phổi khi bị teo tịt van động mạch phổi….
Gia đình cần làm gì để giúp trẻ?
Khám sức khoẻ định kỳ: là rất quan trọng với mọi đứa trẻ, đặc biệt là với những trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh. Nếu biết cách chăm sóc, trẻ mắc dị tật tim cũng có thể tránh được những bệnh thông thường ở trẻ nhỏ một cách an toàn như những đứa trẻ bình thường khác. Con bạn không cần phải dùng thuốc kháng sinh mỗi khi bị bệnh chỉ bởi bé mắc dị tật tim bẩm sinh.
Cho dù đã được can thiệp phẫu thuật hay chưa, trẻ cũng cần được khám định kỳ và được tiêm chủng đúng lịch. Hơn nữa, trẻ còn cần được tiêm chủng bổ sung để tránh mắc các bệnh phổ biến như tiêm phòng cúm.
Để chắc chắn rằng trẻ đang phát triển tốt thì việc khám sức khỏe nói chung và tình trạng tim mạch nói riêng đều đặn là rất quan trọng. Thường thì sau khi được chẩn đoán xác định bệnh tim hoặc sau phẫu thuật tim, trẻ cần được khám lại thường xuyên hơn (hàng tuần hoặc hàng tháng) còn sau đó, số lần khám lại có thể thưa hơn (3 - 6 tháng/ lần).
Hoạt động thể lực: Hầu hết trẻ mắc dị tật tim bẩm sinh có thể sinh hoạt hay vui chơi bình thường, chỉ trừ một số hoạt động đòi hỏi gắng sức nhiều hoặc các môn thể thao mang tính chất thi đấu đối kháng. Trong thực tế, trẻ được động viên tham gia vào các hoạt động thể chất để giúp cho trái tim thích nghi tốt và trẻ có thể tận hưởng cuộc sống. Trẻ có thể tham gia vào một số hoạt động có lợi cho sức khoẻ như bơi, đi xe đạp, chạy, nhảy dây và chơi cầu lông.

Theo TS. Phạm Hùng - Sức khỏe và Đời sống

Mắc bệnh tim vì làm việc trên 8 giờ/ngày

Công bố mới nhất của các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu sức khỏe nghề nghiệp Phần Lan cho hay người làm việc hơn 8 giờ mỗi ngày có thể tăng nguy cơ mắc bệnh tim lên đến 80%.

Làm việc nhiều làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch
Cảnh báo này được đưa ra sau khi các nhà khoa họctiến hành phân tích 12 nghiên cứu khác nhau trong thời gian từ năm 1958 cho đến nay.
Làm việc trên 8 giờ mỗi ngày tăng nguy cơ mắc bệnh tim.
Làm việc trên 8 giờ mỗi ngày tăng nguy cơ mắc bệnh tim.
Các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu sức khỏe nghề nghiệp Phần Lan đã phân tích chỉ số sức khỏe của những người có thời gian làm việc nhiều hơn 8 giờ mỗi ngày. Kết quả cho thấy những người này đang đối mặt với nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn từ 40 - 80 % so với người bình thường.
Theo lý giải của trưởng nhóm nghiên cứu, ông Marianna Virtanen cho biết, những tác động này có thể là do "tiếp xúc triền miên với căng thẳng".
Ngoài ra các yếu tố khác như thói quen ăn uống thiếu dinh dưỡng và thiếu tập thể dục do thời gian nghỉ ngơi hạn chế cũng làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh.
Điều đặc biệt hơn là những người làm việc trong thời gian dài không nghỉ ngơi sẽ dễ bị mất trí nhớ về sau.Ảnh hưởng nàycũng tương tự như tác hại đối của hút thuốc.
Những công nhân trung tuổi làm việc 55 giờ/tuần hay nhiều hơn có chức năng não kém khi họ đạt điểm thấp hơn trong các bài kiểm tra chỉ số thông minh so với những công nhân làm việc dưới 40 giờ/tuần.
Biện pháp phòng ngừa bệnh tim mạch
Bệnh tim mạch tấn công bạn âm thầm. Hãy chủ động áp dụng các biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn điều này.
Theo TS Anil Bansal,trưởng khoa tim mạch, BV Columbia Asia thì "đi bộ nhanh trong khoảng 20 - 30 phút mỗi ngày, được cho là sự lựa chọn tốt nhất để giúp bạn ngăn ngừa bệnh tim".
Điều quan trọng là duy trì hoạt động thể chất. Đi bộ giúp cải thiện lưu thông máu và oxy trong cơ thể; đi bộ cũng tăng cường nhịp tim. Đây cũng là cách làm giảm áp lực, lượng mỡ trong cơ thể và cải thiện lượng đường trong máu.

Theo Khánh Nguyễn - Phununews.vn