(SKDS) - Có
rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên những cơn đau ngực như do tim
mạch, do phổi và màng phổi, do cơ xương thành ngực, do thần kinh…và thậm
chí do tâm căn. Tuy nhiên có một số dấu hiệu chứng tỏ mức độ nguy hiểm
của những cơn đau ngực cần được nhận biết sớm để có biện pháp xác định
chẩn đoán và xử trí kịp thời. Dưới đây là các dấu hiệu báo trước một cơn đau ngực nguy hiểm.
Tính chất của cơn đau ngực
Các cơn đau ngực xảy ra cấp tính, ít hoặc không có dấu hiệu báo trước, mức độ đau dữ dội, đau như bóp nghẹt lấy tim khiến cho người bệnh vật vã, lo sợ hoảng hốt bao giờ cũng là triệu chứng của các bệnh nặng như nhồi máu cơ tim (NMCT), tràn khí màng phổi (TKMP), phình tách động mạch chủ (ĐMC) vỡ…
Vị trí của cơn đau
Đau ngực trái, ngay tại vị trí của tim thường là biểu hiện của NMCT cấp. Tuy nhiên, nhiều khi cơn đau dữ dội ngay dưới mũi ức cũng cần được loại trừ nguyên nhân do NMCT thành sau dưới. Đau ngực phải hoặc bên trái không trùng với vị trí của tim có thể do TKMP. Đau ngực phía sau lưng có thể là biểu hiện của phình tách ĐMC.
Một cơn đau có hướng lan rõ ràng thường kèm với một bệnh lý tương ứng
gây ra cơn đau đó ví dụ như cơn đau dữ dội ngực trái lan lên vai và
cánh tay trái gặp trong NMCT, cơn đau ngực lan ra phía sau có thể thấy
trong phình tách ĐMC ngực…
Tần xuất và thời gian tồn tại cơn đau
Một cơn đau ngực kéo dài không bao giờ đi kèm một tiên lượng tốt. Nó chứng tỏ đã có tổn thương các cơ quan trong lồng ngực như tim, phổi, màng phổi…. Những cơn đau ngực trái kéo dài trên 2 phút và tái diễn liên tục trong vòng 30 phút thường là triệu chứng của NMCT. Đau ngực liên tục không thuyên giảm có thể do TKMP, viêm phổi thùy gây ra.
Triệu chứng đi kèm
Nếu đau ngực kèm theo khó thở thì thường biểu hiện một bệnh lý nguy hiểm thực sự như NMCT, TKMP, nhồi máu phổi (NMP). Mức độ khó thở càng nhiều, bệnh càng nặng. Đau ngực kèm biểu hiện của sốc như vã mồ hôi, chi lạnh, huyết áp tụt… đương nhiên là một cấp cứu khẩn cấp và nguyên nhân đầu tiên phải nghĩ đến là NMCT có sốc, NMCT thất phải, NMP diện rộng… Nếu đau ngực có sốc kèm triệu chứng mất máu thì phải loại trừ nguyên nhân do phình tách ĐMC ngực vỡ. Đau ngực, khó thở, lồng ngực gồ cao bên đau, có tràn khí dưới da là triệu chứng của TKMP có van. Đau ngực, khạc đờm màu rỉ sắt, có hội chứng nhiễm trùng là biểu hiện của viêm phổi thùy.
Các bệnh tật đi kèm
Cơn đau ngực cấp xảy ra ở bệnh nhân tăng huyết áp, xơ vữa mạch, đái tháo đường thường có nguyên nhân do NMCT, phình tách ĐMC ngực. Đau ngực dữ dội, đột ngột ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính cần loại trừ do nguyên nhân TKMP. Đau ngực dữ dội ở bệnh nhân nằm bất động lâu, bệnh nhân có bệnh giãn tĩnh mạch chi dưới, phụ nữ đang dùng thuốc tránh thai, phụ nữ có thai… phải chú ý đến nguyên nhân thuyên tắc mạch phổi do huyết khối….
Mức độ đáp ứng điều trị
Một cơn đau ngực thông thường sẽ dễ dàng mất đi khi điều trị bằng các thuốc giảm đau thông thường hoặc thậm chí tự thoái triển. Cơn đau ngực trái không mất đi khi điều trị bằng các thuốc giãn mạch vành và giảm đau có thể là biểu hiện của NMCT cấp. Các cơn đau do NMP, phình tách ĐMC ngực, TKMP cũng đều đáp ứng điều trị kém, gây đau đớn rất nhiều cho bệnh nhân.
Một số thói quen có hại
Hút thuốc lá đã được chứng minh là nguyên nhân hàng đầu của nhiều loại bệnh tật trong đó có xơ vữa động mạch. Đau ngực ở một bệnh nhân nghiện thuốc lá thường có căn nguyên do bệnh mạch vành hoặc động mạch chủ ngực. Bệnh nhân nghiện rượu, xơ gan do rượu nên chú ý đến nhồi máu phổi do huyết khối tĩnh mạch chi dưới hoặc viêm phổi.
Tiền sử gia đình
Một bệnh nhân đau ngực nhiều mà tiền sử có bố mẹ, anh chị em ruột bị tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim hoặc đột tử không rõ lý do, hoặc mắc các bệnh lý rối loạn hệ thống dẫn truyền của tim như hội chứng Brugada, hội chứng Wolff - Parkinson - White, các bệnh lý của hệ động mạch như hội chứng Marfan, hội chứng Ehlers - Danlos cũng nên được chú ý tham khảo.
Tuổi tác, giới tính
Đau ngực ở người trẻ thì ít có căn nguyên do mạch vành bị xơ vữa. Các bệnh lý gây đau ngực nhiều ở tuổi này thường gặp là TKMP tự phát do vỡ các kén khí bẩm sinh ở phổi hoặc viêm phổi thùy. Bệnh lý mạch vành và động mạch chủ cũng thường gặp ở người cao tuổi và ở nam nhiều hơn nữ.
Tính chất của cơn đau ngực
Các cơn đau ngực xảy ra cấp tính, ít hoặc không có dấu hiệu báo trước, mức độ đau dữ dội, đau như bóp nghẹt lấy tim khiến cho người bệnh vật vã, lo sợ hoảng hốt bao giờ cũng là triệu chứng của các bệnh nặng như nhồi máu cơ tim (NMCT), tràn khí màng phổi (TKMP), phình tách động mạch chủ (ĐMC) vỡ…
Vị trí của cơn đau
Đau ngực trái, ngay tại vị trí của tim thường là biểu hiện của NMCT cấp. Tuy nhiên, nhiều khi cơn đau dữ dội ngay dưới mũi ức cũng cần được loại trừ nguyên nhân do NMCT thành sau dưới. Đau ngực phải hoặc bên trái không trùng với vị trí của tim có thể do TKMP. Đau ngực phía sau lưng có thể là biểu hiện của phình tách ĐMC.
|
Hướng lan
Tần xuất và thời gian tồn tại cơn đau
Một cơn đau ngực kéo dài không bao giờ đi kèm một tiên lượng tốt. Nó chứng tỏ đã có tổn thương các cơ quan trong lồng ngực như tim, phổi, màng phổi…. Những cơn đau ngực trái kéo dài trên 2 phút và tái diễn liên tục trong vòng 30 phút thường là triệu chứng của NMCT. Đau ngực liên tục không thuyên giảm có thể do TKMP, viêm phổi thùy gây ra.
Triệu chứng đi kèm
Nếu đau ngực kèm theo khó thở thì thường biểu hiện một bệnh lý nguy hiểm thực sự như NMCT, TKMP, nhồi máu phổi (NMP). Mức độ khó thở càng nhiều, bệnh càng nặng. Đau ngực kèm biểu hiện của sốc như vã mồ hôi, chi lạnh, huyết áp tụt… đương nhiên là một cấp cứu khẩn cấp và nguyên nhân đầu tiên phải nghĩ đến là NMCT có sốc, NMCT thất phải, NMP diện rộng… Nếu đau ngực có sốc kèm triệu chứng mất máu thì phải loại trừ nguyên nhân do phình tách ĐMC ngực vỡ. Đau ngực, khó thở, lồng ngực gồ cao bên đau, có tràn khí dưới da là triệu chứng của TKMP có van. Đau ngực, khạc đờm màu rỉ sắt, có hội chứng nhiễm trùng là biểu hiện của viêm phổi thùy.
Các bệnh tật đi kèm
Cơn đau ngực cấp xảy ra ở bệnh nhân tăng huyết áp, xơ vữa mạch, đái tháo đường thường có nguyên nhân do NMCT, phình tách ĐMC ngực. Đau ngực dữ dội, đột ngột ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính cần loại trừ do nguyên nhân TKMP. Đau ngực dữ dội ở bệnh nhân nằm bất động lâu, bệnh nhân có bệnh giãn tĩnh mạch chi dưới, phụ nữ đang dùng thuốc tránh thai, phụ nữ có thai… phải chú ý đến nguyên nhân thuyên tắc mạch phổi do huyết khối….
Mức độ đáp ứng điều trị
Một cơn đau ngực thông thường sẽ dễ dàng mất đi khi điều trị bằng các thuốc giảm đau thông thường hoặc thậm chí tự thoái triển. Cơn đau ngực trái không mất đi khi điều trị bằng các thuốc giãn mạch vành và giảm đau có thể là biểu hiện của NMCT cấp. Các cơn đau do NMP, phình tách ĐMC ngực, TKMP cũng đều đáp ứng điều trị kém, gây đau đớn rất nhiều cho bệnh nhân.
Một số thói quen có hại
Hút thuốc lá đã được chứng minh là nguyên nhân hàng đầu của nhiều loại bệnh tật trong đó có xơ vữa động mạch. Đau ngực ở một bệnh nhân nghiện thuốc lá thường có căn nguyên do bệnh mạch vành hoặc động mạch chủ ngực. Bệnh nhân nghiện rượu, xơ gan do rượu nên chú ý đến nhồi máu phổi do huyết khối tĩnh mạch chi dưới hoặc viêm phổi.
Tiền sử gia đình
Một bệnh nhân đau ngực nhiều mà tiền sử có bố mẹ, anh chị em ruột bị tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim hoặc đột tử không rõ lý do, hoặc mắc các bệnh lý rối loạn hệ thống dẫn truyền của tim như hội chứng Brugada, hội chứng Wolff - Parkinson - White, các bệnh lý của hệ động mạch như hội chứng Marfan, hội chứng Ehlers - Danlos cũng nên được chú ý tham khảo.
Tuổi tác, giới tính
Đau ngực ở người trẻ thì ít có căn nguyên do mạch vành bị xơ vữa. Các bệnh lý gây đau ngực nhiều ở tuổi này thường gặp là TKMP tự phát do vỡ các kén khí bẩm sinh ở phổi hoặc viêm phổi thùy. Bệnh lý mạch vành và động mạch chủ cũng thường gặp ở người cao tuổi và ở nam nhiều hơn nữ.
Làm gì khi bạn có biểu hiện một cơn đau ngực nguy hiểm?
Khi bệnh nhân bị đau ngực nhiều cộng với
có thêm các yếu tố gợi ý như trên, nhất thiết phải kiểm tra kỹ càng để
loại trừ các nguyên nhân có thể gây nguy hiểm cho bệnh nhân như NMCT
cấp, TKMP, phình tách ÐMC ngực, nhồi máu phổi. Ngoài việc hỏi bệnh và
thăm khám lâm sàng, các biện pháp cận lâm sàng như chụp XQ tim phổi,
chụp CT ngực, làm điện tim, chụp cắt lớp đa dãy, siêu âm doppler hệ
thống mạch, chụp mạch phổi, xét nghiệm troponin T, I… sẽ giúp thầy thuốc
xác định chẩn đoán. Về phía bệnh nhân, nếu thấy xuất hiện một cơn đau
ngực có các biểu hiện như trên nên khẩn trương đến ngay cơ sở y tế gần
nhất để được theo dõi xử trí.
|
Tiến sĩ - Bác sĩ VŨ ÐỨC ÐỊNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét