Bệnh van hai lá là bệnh van tim phổ biến tại Việt Nam,
 đa số nguyên nhân do thấp tim. Đây là bệnh khá điển hình ở các nước 
nghèo, đang phát triển mà khởi đầu là các bệnh nhiễm khuẩn vùng mũi họng
 và đường hô hấp do một loại vi khuẩn có tên: liên cầu khuẩn tan huyết ß
 nhóm A (streptococcus A).
Van hai lá nằm giữa tâm nhĩ và tâm thất trái. Thương 
tổn van hai lá do thấp tim rất phức tạp và nặng nề. Có 3 loại tổn thương
 chính là hẹp van, hở van và kết hợp vừa hở vừa hẹp van. 
Nguyên nhân chính làm cho van hai lá bị hỏng là do 
thấp tim không được điều trị triệt để, dẫn đến tổn thương van tim, khiến
 cho các lá van dày lên, có thể lắng đọng canxi làm lá van cứng lại, hạn
 chế di động. Các mép van dính lại với nhau gây hẹp lỗ van, các dây 
chằng dày dính lại với nhau thành một khối khiến van bị hở. 
Không nên xem nhẹ những dấu hiệu ban đầu
Khó thở là dấu hiệu rất phổ biến của bệnh. Người bệnh
 ban đầu thấy khó thở khi làm việc nặng hoặc khi gắng sức như lên cầu 
thang, sau đó mức độ khó thở sẽ tăng dần, chỉ cần làm việc nhẹ như sinh 
hoạt hàng ngày người bệnh đã thấy khó thở và sẽ đỡ khi nghỉ ngơi. Nếu 
bệnh không được điều trị, mức độ khó thở sẽ tăng hơn nữa, khiến người 
bệnh khó thở cả khi nghỉ không làm gì, ban đêm thường phải ngồi dậy để 
thở. Bên cạnh dấu hiệu khó thở, đôi khi bệnh nhân có ho ra máu, có thể 
chỉ ho ra ít máu. Dấu hiệu này dễ khiến bệnh nhân cũng như thầy thuốc 
nhầm với bệnh lý của phổi hay đường hô hấp, chỉ khi kiểm tra về tim mới 
phát hiện ra bệnh.
Rất nhiều bệnh nhân có những biểu hiện trên, nhưng do
 điều kiện khó khăn hoặc chủ quan không đến khám, khiến mức độ bệnh nặng
 dần lên. Vì thế đa số người bệnh đến khám khi bệnh ở giai đoạn nặng. 
| 
Theo thống kê của Viện Tim mạch Quốc gia, trong những
 năm gần đây có tới 50% tổng số bệnh nhân nhập viện là các bệnh van tim 
do thấp, chiếm đến hơn 90% trong số các bệnh tim mắc phải, trong đó chủ 
yếu là bệnh van hai lá. | 
Khám tim nghe được tiếng thổi bất thường ở vùng tim 
có thể hướng tới bệnh tim là hẹp hay hở van. Tuy nhiên, để chẩn đoán 
chính xác cần làm thêm các xét nghiệm chụp phim Xquang, điện tim đồ và 
đặc biệt là siêu âm tim. 
Ngày nay, với siêu âm tim giúp cho thầy thuốc có thể 
đánh giá chính xác mức độ hẹp hay hở van. Bên cạnh đó đánh giá được hình
 thái tổn thương của van, mức độ dày, vôi hóa, cũng như tình trạng dây 
chằng của van hai lá. 
Điều trị thế nào?
Sau khi đánh giá thương tổn van hai lá và các tổn 
thương phối hợp nếu có ở các van tim khác (như van ba lá, van động mạch 
chủ), đánh giá chức năng tim, mức độ suy tim, bác sĩ chuyên khoa sẽ có 
phương án can thiệp phù hợp kết hợp với điều trị nội khoa (điều trị bằng
 thuốc) trước và sau khi can thiệp. Việc điều trị chống suy tim chủ yếu 
bằng chế độ ăn hạn chế muối, nghỉ ngơi, dùng thuốc chống suy tim và lợi 
tiểu. 
| 
 Thay van hai lá nhân tạo (phẫu thuật với máy tim phổi nhân tạo). | 
Với tổn thương hẹp van hai lá đơn thuần: Khi
 van hai lá chỉ hẹp mà không có hở, có thể mổ nong van bằng dụng cụ hoặc
 hiện nay phổ biến mổ với tuần hoàn ngoài cơ thể, cho tim ngừng đập, mở 
nhĩ trái và mở rộng van hai lá. Với phương pháp này kết quả thường tốt, 
nhưng chi phí cho phẫu thuật còn rất cao nên đôi khi vẫn phải lựa chọn 
mổ nong van bằng dụng cụ, với chi phí phẫu thuật thấp hơn, tuy nhiên kết
 quả hạn chế hơn. 
Có một phương pháp khác là nong van bằng can thiệp 
mạch qua da. Bác sĩ chuyên khoa can thiệp mạch sẽ dùng một ống thông 
luồn trong lòng mạch máu từ tĩnh mạch đùi ở bẹn, ống thông đi theo tĩnh 
mạch về tâm nhĩ phải, rồi chọc qua vách liên nhĩ sang nhĩ trái, sau đó 
đưa qua van hai lá xuống thất trái. Đầu ống thông có quả bóng, khi bơm 
căng bóng sẽ nong rộng lỗ van. Với phương pháp này, bệnh nhân không phải
 phẫu thuật, thời gian nằm viện ngắn. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ áp 
dụng khi tình trạng van còn tương đối tốt, chỉ hẹp van đơn thuần hoặc 
kết hợp hở nhẹ. Nếu bệnh nhân đến muộn, van tổn thương nặng nề thì chỉ 
có phương pháp duy nhất là phẫu thuật thay van hai lá nhân tạo. 
Với tổn thương hở van hai lá hoặc kết hợp hở - hẹp van hai lá:
 Trong trường hợp này, điều trị duy nhất là phẫu thuật sửa hoặc thay van
 hai lá với tuần hoàn ngoài cơ thể. Chỉ định sửa hay thay van không chỉ 
phụ thuộc vào mức độ thương tổn của van mà còn phụ thuộc vào các yếu tố 
khác như tuổi, cơ sở vật chất, kinh tế người bệnh, khả năng, kinh nghiệm
 của thầy thuốc... Tuy nhiên khi lá van dày, vôi hóa nhiều, dây chằng lá
 van co rút nặng thì phải thay van nhân tạo, nếu lá van còn mềm mại, dây
 chằng chưa thương tổn nặng thì nên sửa van.
Bệnh có phòng được không?
Việc phòng bệnh thấp tim là vô cùng quan trọng bởi vì
 liên cầu khuẩn có thể khu trú ở đường hô hấp trên hoặc trên da và dễ 
lây nhiễm. Bệnh hay xảy ra khi người bệnh sống trong môi trường ẩm thấp,
 thiếu vệ sinh, điều kiện dinh dưỡng không đảm bảo... Nếu bệnh nhân có 
các dấu hiệu nhiễm khuẩn đường hô hấp trên do liên cầu khuẩn tan máu bê 
ta nhóm A như: sốt, viêm họng, viêm amidan, sưng hạch bạch huyết dưới 
hàm, nuốt đau, hoặc phát hiện trẻ có dấu hiệu đau khớp thì cần đưa ngay 
trẻ đến khám tại các cơ sở y tế.
Cần chú ý biện pháp tuyên truyền để người dân biết lợi
 ích của việc điều trị viêm họng, nhất là cho trẻ cũng như hậu quả tai 
hại của bệnh van tim do thấp, phổ biến, giáo dục sức khỏe cho trẻ giữ vệ
 sinh, giữ ấm tránh nhiễm lạnh, nâng cao thể chất, cải tạo môi trường 
sống, nâng cao chất lượng sống, thoát nghèo là một yếu tố rất quan 
trọng. 
BS. Ngô Tuấn Anh
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét