Các vitamin chống ôxy hóa như vitamin E, C không nên sử dụng cho bệnh nhân hồi phục sau NMCTC để phòng ngừa các bệnh tim mạch
Bệnh nhân nhồi máu cơ tim (NMCT)có nguy cơ tái phát rất cao nếu không được chăm sóc và điều trị tốt.
Những điều bệnh nhân cần biết
Bệnh nhân và gia đình cần được hướng dẫn trước khi ra viện về các
triệu chứng của thiếu máu cơ tim, gọi xe cấp cứu khi các triệu chứng
thiếu máu cơ tim tái phát và không giảm đi hay trở nên trầm trọng hơn
sau 5 phút ngậm 1 viên nitroglycerin dưới lưỡi.
Bệnh nhân thừa cân - béo phì có thể dẫn đến hội chứng chuyển hóa và cần phải giảm cân.
Các bệnh nhân cần tránh tái hút thuốc lá khi ra viện. Đồng thời
phải kiểm soát huyết áp dưới 140/90mmHg (dưới 130/80mmHg ở bệnh nhân đái
tháo đường hay bệnh thận mạn tính) bằng thuốc và thay đổi lối sống.
Không nên dùng thuốc chẹn kênh canxi nhóm dihydropyridin có tác dụng
ngắn để điều trị tăng huyết áp.
Nếu bệnh nhân có đái tháo đường cần kiểm soát chặt đường huyết bằng
insulin hay thuốc hạ đường huyết uống và chế độ ăn để đạt HbA1C dưới
7%. Nhóm thuốc thiazolidinedion không nên dùng cho các bệnh nhân hồi
phục sau NMCTC bị suy tim độ III-IV.
Hormon liệu pháp với estrogen phối hợp với progestin không nên sử
dụng cho các bệnh nhân mới bị mãn kinh sau NMCTC. Các bệnh nhân mãn kinh
đã sử dụng thuốc tại thời điểm bị NMCTC không nên tiếp tục dùng thuốc.
Hormon liệu pháp không nên tiếp tục dùng khi bệnh nhân phải nằm dưỡng
bệnh tại giường.
Các vitamin chống ôxy hóa như vitamin E, C không nên sử dụng cho bệnh nhân hồi phục sau NMCTC để phòng ngừa các bệnh tim mạch.
Cần kiểm soát nhịp tim sau khi được xử trí nhồi máu.
Các chỉ định điều trị sau nhồi máu cơ tim
Các bệnh nhân hội chứng động mạch vành (ĐMV) cấp cần được theo dõi
ít nhất trong 24 giờ để đánh giá nhánh ĐMV gây nhồi máu được mở thông
sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết. Huyết áp nên được theo dõi liên tục.
Bệnh nhân NMCTC phải nhập viện, chăm sóc đặc biệt và theo dõi điện
tim liên tục. Phải cho bệnh nhân dùng aspirin (160-325mg) và heparin
càng sớm càng tốt. Điều trị bằng thuốc chẹn bêta giao cảm và
nitroglycerin, nếu còn đau ngực và không có chống chỉ định. Phối hợp
các thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa với heparin và aspirin
cũng làm giảm tỷ lệ biến chứng lâm sàng (tử vong và NMCT). Vì vậy cả
heparin trọng lượng phân tử thấp và ức chế thụ thể glycoprrotein
IIb/IIIa được chỉ định cho bệnh nhân hội chứng ĐMV cấp, trong đó
có NMCT.
Nên chủ động can thiệp ĐMV sớm ở những bệnh nhân hội chứng ĐMV cấp có nguy cơ cao trừ khi có chống chỉ định.
Còn đối với NMCTC có đoạn ST chênh lên thì tiêu sợi huyết vẫn là
phương pháp điều trị chuẩn mực cho các bệnh nhân đến viện sớm và không
có chống chỉ định. Tuy nhiên, tái tưới máu bằng can thiệp ĐMV qua da có
tiên lượng tốt hơn, đặc biệt là ở những trung tâm tim mạch can thiệp
lớn, có nhiều kinh nghiệm. Đối với điều trị tiêu sợi huyết, vấn đề quan
trọng nhất là phải dùng thuốc càng sớm càng tốt sau khi khởi phát nhồi
máu cơ tim. Heparin được dùng để bổ sung cho điều trị tiêu sợi huyết.
Tác dụng ức chế ngưng tập tiểu cầu của các thuốc ức chế thụ thể
glycoprotein IIb/IIIa làm tăng tỷ lệ mở thông nhánh ĐMV và duy trì mở
thông các động mạch này về lâu dài.
Bệnh nhân phải được tư vấn kỹ lưỡng để thay đổi và điều trị các yếu
tố nguy cơ. Đa số bệnh nhân phải dùng lâu dài các thuốc aspirin, thuốc
chẹn bêta giao cảm, thuốc statin và một thuốc ức chế men chuyển.
Theo PGS.TS. Nguyễn Quang Tuấn (VTMVN) - Sức khỏe & Đời sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét