Các kỹ thuật xạ hình tưới máu cơ tim (myocardial perfusion imaging: MPI) sử dụng công nghệ chụp SPECT (Single Photon Emision Computed Tomography), PET (Positron Emision Tomography) đang làm thay đổi mạnh mẽ hiệu quả điều trị bệnh tim mạch. Sự chính xác trong chẩn đoán, tiên lượng, định hướng điều trị và theo dõi bệnh động mạach vành của phương pháp chụp xạ hình bằng PET và SPECT đã khẳng định sự cần thiết của tim mạch hạt nhân. Đây cũng là những kỹ thuật tiên tiến đang được ứng dụng tại Khoa y học hạt nhân - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
Phương pháp “vàng” quyết định chiến lược điều trị
Được chuyển đến Viện Tim mạch Việt Nam sau khi bị nhồi máu cơ tim ngày thứ 3, bệnh nhân Đặng Văn T., 75 tuổi (Yên Lạc - Vĩnh Phúc) trong tình trạng sức khỏe rất xấu, có nhiều dấu hiệu của suy tim, phân số tống máu (EF) của thất trái chỉ còn 35% (chỉ số EF dưới 40% sẽ rất nguy hiểm cho người bệnh do chức năng thất trái giảm mạnh)... PGS.TS. Nguyễn Quang Tuấn - Trưởng phòng C4, Viện Tim mạch Việt Nam cho biết, để có chiến lược điều trị đúng đắn cho bệnh nhân T. cần phải đánh giá đầy đủ vị trí và mức độ tắc/hẹp của các động mạch vành, tình trạng sống còn của vùng cơ tim bị nhồi máu. Xạ hình tưới máu cơ tim (MPI) là biện pháp tối ưu vì đáp ứng được những yêu cầu trên. Kết quả của MPI cho thấy bệnh nhân bị tắc một đoạn động mạch vành khiến một vùng cơ tim bị nhồi máu nhưng chưa thành sẹo, có khả năng hồi phục nếu được tái tưới máu kịp thời, thân chung động mạch vành trái bị tắc nghẽn trên 90%, thất trái bị giãn. Các bác sĩ quyết định can thiệp đặt stent 2 vị trí tắc/hẹp này. Sau can thiệp, trả lại tuần hoàn cho vùng cơ tim bị thiếu máu và nhồi máu, phân số tống máu của thất trái nhanh chóng được cải thiện.
Xạ hình cơ tim cho biết vùng khuyết xạ là vùng cơ tim bị nhồi máu.
|
Nhiều ưu điểm vượt trội
Những ứng dụng lâm sàng của xạ hình tưới máu cơ tim
- Chẩn đoán bệnh động mạch vành
- Tiên lượng và phân tầng nguy cơ bệnh động mạch vành
- Đánh giá tình trạng sinh - bệnh lý của các tổn thương hẹp động mạch vành
- Đánh giá khả năng sống còn của cơ tim
- Đánh giá hiệu quả điều trị nội khoa và theo dõi sau can thiệp tái tưới máu (nong động mạch vành, phẫu thuật bắc cầu nối chủ - vành)
|
PET được sử dụng để đánh giá tưới máu cơ tim bằng các dược chất phóng xạ như 13-N amoniac và 82-Rubidium. Độ nhạy của PET có thể đạt tới 100%. Sử dụng phương pháp gắn cổng điện tim với kỹ thuật PET (FDG PET) có giá trị cao trong đánh giá tình trạng cơ tim sống còn, phân biệt vùng cơ tim choáng, cơ tim đông miên với sẹo cơ tim. Hiện nay, FDG PET là phương pháp chuẩn để đánh giá khả năng phục hồi vận động và chức năng thất trái sau can thiệp tái tưới máu động mạch vành (độ nhạy trên 91%). Sử dụng PET/CT có thể cho phép tiến hành đồng thời chụp động mạch vành bằng CT đa lớp cắt, kết hợp với các thông tin của PET về tình trạng chức năng như tưới máu cơ tim, đánh giá cơ tim sống còn được trình bày trên cùng một hình ảnh theo không gian 3 chiều.
Theo PGS.TS. Nguyễn Quang Tuấn, MPI chụp bằng phương pháp SPECT là biện pháp tốt nhất đánh giá tiến triển của bệnh mạch vành. Bởi chụp động mạch vành chỉ đánh giá mức độ hẹp của động mạch vành, trong khi SPECT MPI định lượng được mật độ phân bố phóng xạ tương ứng với lượng máu cung cấp cho cơ tim, dấu hiệu chỉ định tốt hơn trong đánh giá sự cải thiện. Chụp động mạch vành cản quang là một thăm dò chảy máu và ẩn chứa những nguy cơ nhất định, trong khi SPECT là một thăm dò không chảy máu và do vậy an toàn hơn. Nếu bệnh nhân bị đau thắt ngực ổn định, đang cân nhắc việc phẫu thuật hay can thiệp động mạch vành qua da, nên yêu cầu bác sĩ cho chụp SPECT xạ hình tưới máu cơ tim. Làm lại SPECT (trên cùng máy đó) sau 3 - 6 tháng để xem tưới máu cơ tim vẫn như cũ, tốt hơn hay xấu hơn. Những thăm dò khác như nghiệm pháp gắng sức hay siêu âm tim gắng sức không có đủ độ nhạy để phát hiện những khoảng thay đổi này. Nếu triệu chứng được cải thiện, nồng độ cholesterol trong máu giảm xuống và kết quả SPECT cho thấy quá trình tiến triển bệnh tim ổn định và bắt đầu hồi phục thì có thể trì hoãn phẫu thuật hay can thiệp động mạch vành qua da. Nếu diễn biến ngược lại thì người bệnh cần được can thiệp hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ - vành.
Hình ảnh của xạ hình tưới máu cơ tim.
|
Làm thay đổi hiệu quả điều trị bệnh mạch vành
PGS.TS. Lê Ngọc Hà - Trưởng khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho biết, trong những năm gần đây, tim mạch hạt nhân nói chung và phương pháp MPI nói riêng đã có những bước phát triển nhanh chóng, đã làm thay đổi hiệu quả điều trị bệnh mạch vành, giúp các bác sĩ đưa ra chỉ định điều trị đúng đắn (nội khoa, can thiệp hay phẫu thuật...) cũng như đánh giá tiến triển sau quá trình điều trị. Trên thế giới, MPI đã được ứng dụng phổ biến không những trong chẩn đoán mà còn có giá trị tiên lượng và phân tầng nguy cơ bệnh động mạch vành, đánh giá ý nghĩa tình trạng sinh - bệnh lý những tổn thương hẹp trên hình ảnh chụp động mạch vành, theo dõi sau thủ thuật tái tưới máu và điều trị nội khoa, đánh giá cơ tim sống còn.
MPI đã có những bước phát triển không ngừng với việc tìm ra các dược chất phóng xạ gắn Tc99m như sestamibi, tetrofosmin…, sự cải tiến các phần mềm phân tích định lượng, hiệu chỉnh độ suy giảm cùng với sự phát triển của phương pháp chụp SPECT xạ hình tưới máu cơ tim gắn cổng điện tim (ECG - gated SPECT MPI)… đã giúp MPI được ứng dụng rộng rãi như một phương pháp chẩn đoán không chảy máu có vai trò ảnh hưởng đến quyết định lâm sàng và trở thành một phương pháp phổ biến nhất trong tim mạch hạt nhân.
Lê Hảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét