Bệnh van hai lá thường gặp ở người nghèo, sống ở nơi ẩm thấp, dễ lây nhiễm các bệnh của vùng họng mũi và đường hô hấp do vi trùng Streptococus tán huyết gây nên.
Khi mắc bệnh, bệnh nhân (BN) không có đủ tài chính để theo đuổi
một chương trình điều trị lâu dài và khá tốn kém bao gồm sử dụng kháng
sinh liên tục và kéo dài từ khi bị viêm nhiễm đến năm 25 tuổi. Cũng có
một số trường hợp, BN do chủ quan, do không được phổ biến kiến thức về y
học, nên khi bị bệnh, họ không chịu điều trị một cách bài bản. Từ đó
tạo ra tình trạng viêm nhiễm liên tục và tái phát, có một số trường hợp
trở nên kháng kháng sinh. Trong dân gian có câu: Khớp đớp tim, tim tìm
đến thận, thận là cận với gan, là chỉ tình trạng này.
Hẹp van hai lá là căn bệnh về van tim hay gặp nhất, chiếm đến gần 60%
các bệnh về van tim. Những triệu chứng cơ bản của bệnh đã được ghi nhận
trong y văn là:
- Khó thở, đặc biệt là khó thở khi nằm và kịch phát về đêm.
- Các triệu chứng này xuất hiện khi BN có thai hoặc bị rung nhĩ. Chính vì vậy, ở những BN bị hẹp van hai lá khi chưa được điều trị triệt để, các thầy thuốc thường khuyên BN không nên có thai.
50-80% số BN có xuất hiện những cơn rung nhĩ kịch phát hay mạn tính. Từ đó có thể gây ra phù phổi cấp và thúc đẩy nhanh quá trình suy tim làm cho BN có thể tử vong, nếu không được cấp cứu kịp thời.
Để chẩn đoán chính xác, BN cần được siêu âm tim. Lúc đó, thầy thuốc sẽ thấy rõ hoạt động của van hai lá và tình trạng hẹp của nó. Có ba mức độ hẹp, đó là hẹp nhẹ, hẹp vừa và hẹp khít hai lá van.
Việc điều trị chủ yếu là chống suy tim bằng chế độ ăn hạn chế muối, nghỉ ngơi, nằm đầu cao khi ngủ, dùng thuốc chống suy tim, lợi tiểu. Nếu BN bị hẹp van hai lá nặng, cần phải can thiệp tạo hình tách lá van, tạo hình van hay thay toàn bộ van. Việc tách van hai lá có thể thực hiện qua đường nội mạch không cần phải phẫu thuật. Còn tạo hình lá van hay thay van tim cần phải phẫu thuật. Việc nong van bằng bong bóng hay phẫu thuật đều chi phí cao. Vì vậy, phần lớn BN nghèo bị hẹp van hai lá không thể tiếp cận với điều trị, ngoại trừ có sự trợ giúp của xã hội hay của Nhà nước qua hoạt động từ thiện hoặc bảo hiểm y tế.
Bệnh hở van hai lá có thể do nhiều nguyên nhân. Bệnh thường phối hợp với hẹp van hai lá gây nên tình trạng hẹp hở van hai lá. Bên cạnh thấp tim là nguyên nhân gây bệnh hở van hai lá, còn do các nguyên nhân khác: thoái hóa nhầy trong hội chứng Marfan, viêm nội tâm mạch nhiễm trùng, đứt dây chằng van tim…
Các triệu chứng chính của hở van hai lá là đau ngực trái không điển hình, khó thở kèm theo mệt mỏi, có thể có cảm giác hồi hộp, đánh trống ngực. Phần lớn BN là nữ. Việc chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào siêu âm tim. Có bốn mức độ hở van từ nhẹ tới nặng là 1/4 - 4/4.
Phẫu thuật là điều trị cơ bản giúp cứu sống BN và giải quyết tốt tình trạng hở van hai lá, nhằm tránh được một số biến chứng nặng của bệnh như suy tim, viêm nội tâm mạc…
Cách nào để phòng bệnh?
Do chi phí điều trị rất cao, nên không phải BN nào cũng được điều trị triệt để. Đã có nhiều BN tử vong do không được điều trị hay đến bệnh viện trong tình trạng quá nặng. Phần lớn BN rất nghèo, không dám hay không thể theo đuổi quá trình điều trị khá dài và tốn kém. Điều quan trọng là phòngngừa bệnh.
Bệnh hay xảy ra khi người bệnh sống trong môi trường ẩm thấp, thiếu vệ sinh. Do đó, việc cải tạo môi trường sống, nâng cao chất lượng sống là một yếu tố rất quan trọng. Nếu BN đã bị bệnh thấp tim, cần phải có chế độ khám định kỳ, uống hoặc tiêm kháng sinh liên tục cho đến năm 25 tuổi theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới.
- Khó thở, đặc biệt là khó thở khi nằm và kịch phát về đêm.
- Các triệu chứng này xuất hiện khi BN có thai hoặc bị rung nhĩ. Chính vì vậy, ở những BN bị hẹp van hai lá khi chưa được điều trị triệt để, các thầy thuốc thường khuyên BN không nên có thai.
50-80% số BN có xuất hiện những cơn rung nhĩ kịch phát hay mạn tính. Từ đó có thể gây ra phù phổi cấp và thúc đẩy nhanh quá trình suy tim làm cho BN có thể tử vong, nếu không được cấp cứu kịp thời.
Để chẩn đoán chính xác, BN cần được siêu âm tim. Lúc đó, thầy thuốc sẽ thấy rõ hoạt động của van hai lá và tình trạng hẹp của nó. Có ba mức độ hẹp, đó là hẹp nhẹ, hẹp vừa và hẹp khít hai lá van.
Việc điều trị chủ yếu là chống suy tim bằng chế độ ăn hạn chế muối, nghỉ ngơi, nằm đầu cao khi ngủ, dùng thuốc chống suy tim, lợi tiểu. Nếu BN bị hẹp van hai lá nặng, cần phải can thiệp tạo hình tách lá van, tạo hình van hay thay toàn bộ van. Việc tách van hai lá có thể thực hiện qua đường nội mạch không cần phải phẫu thuật. Còn tạo hình lá van hay thay van tim cần phải phẫu thuật. Việc nong van bằng bong bóng hay phẫu thuật đều chi phí cao. Vì vậy, phần lớn BN nghèo bị hẹp van hai lá không thể tiếp cận với điều trị, ngoại trừ có sự trợ giúp của xã hội hay của Nhà nước qua hoạt động từ thiện hoặc bảo hiểm y tế.
Bệnh hở van hai lá có thể do nhiều nguyên nhân. Bệnh thường phối hợp với hẹp van hai lá gây nên tình trạng hẹp hở van hai lá. Bên cạnh thấp tim là nguyên nhân gây bệnh hở van hai lá, còn do các nguyên nhân khác: thoái hóa nhầy trong hội chứng Marfan, viêm nội tâm mạch nhiễm trùng, đứt dây chằng van tim…
Các triệu chứng chính của hở van hai lá là đau ngực trái không điển hình, khó thở kèm theo mệt mỏi, có thể có cảm giác hồi hộp, đánh trống ngực. Phần lớn BN là nữ. Việc chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào siêu âm tim. Có bốn mức độ hở van từ nhẹ tới nặng là 1/4 - 4/4.
Phẫu thuật là điều trị cơ bản giúp cứu sống BN và giải quyết tốt tình trạng hở van hai lá, nhằm tránh được một số biến chứng nặng của bệnh như suy tim, viêm nội tâm mạc…
Cách nào để phòng bệnh?
Do chi phí điều trị rất cao, nên không phải BN nào cũng được điều trị triệt để. Đã có nhiều BN tử vong do không được điều trị hay đến bệnh viện trong tình trạng quá nặng. Phần lớn BN rất nghèo, không dám hay không thể theo đuổi quá trình điều trị khá dài và tốn kém. Điều quan trọng là phòngngừa bệnh.
Bệnh hay xảy ra khi người bệnh sống trong môi trường ẩm thấp, thiếu vệ sinh. Do đó, việc cải tạo môi trường sống, nâng cao chất lượng sống là một yếu tố rất quan trọng. Nếu BN đã bị bệnh thấp tim, cần phải có chế độ khám định kỳ, uống hoặc tiêm kháng sinh liên tục cho đến năm 25 tuổi theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới.
Theo PGS-TS Nguyễn Hoài Nam - Phụ ữ online
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét