
Các biện pháp không dùng thuốc 
Hạn
 chế muối là nguyên tắc cơ bản trong chế độ ăn uống của các bệnh nhânsuy
 tim,làm cho bệnh nhân tiểu tiện được tốt hơn và giảm tình trạng phù. Để
 có thể áp dụng một cách đúng đắn, cần nên nhắc lại một số điểm sau:
Chế
 độ ăn uống của một người trưởng thành bình thường trong một ngày có 10g
 muối natri clorua hay 4g natri, còn khi điều trị suy tim thường người 
ta phải áp dụng chế độ ăn có từ 200 - 500mg natri/24 giờ. Một số thức ăn
 có hàm lượng muối thấp, bệnh nhânsuy tim có thể sử dụng: là bánh mì 
không muối, sữa được rút bỏ thành phần clorua khoảng 200ml/ngày, cá nước
 ngọt, khoai tây, gạo, ngũ cốc, hoa quả tươi, rượu vang, nước chè, nước 
ép quả tự nhiên.
Những chỉ định khác trong chế độ ăn uống của bệnh nhân
Lượng
 nước đưa vào cơ thể người bệnh theo đường uống không vượt quá 2 lít 
dịch/ngày. Người ta khuyên nên thực hiện một chế độ ăn giảm calo trong 
trường hợp bệnh nhân béo phì. Thức ăn của bệnh nhân nên được chia thành 3
 bữa chính trong ngày, bữa tối nên ăn trước khi đi ngủ từ 2-3 giờ. Có 
thể cho phép bệnh nhân sử dụng chè loãng và rượu nhẹ với một lượng vừa 
phải. Không nên hút thuốc lá. Người bệnh đái tháo đường, bệnh goutte, 
bệnh vữa xơ động mạch nặng thì sẽ có những chỉ định bổ sung trong chế độ
 ăn uống của họ.
Phục
 hồi chức năng tim mạch có thể giúp cải thiện triệu chứng và dung nạp 
gắng sức của bệnh nhânsuy tim. Phương pháp điềutrị này có thể hạn chế 
hoặc phòng ngừa sự teo cơ vân của bệnh nhân mà đây cũng là một trong 
những nguyên nhânlàm bệnh nhân kém khả năng gắng sức. Bệnh nhân béo phì 
khi giảm cân là một dấu hiệu tốt.
Điều trị bằng thuốc thường quy
Thuốc ức chế men chuyển dạng angiotensin II (ACEI)
ACEI
 được sử dụng như một thuốc đầu tay trong điềutrị suy tim, ngay ở giai 
đoạnsuy tim chưa có biểu hiện lâm sàng hay không có dấu hiệu giữ nước, 
nếu có dấu hiệu giữ nước thì nên dùng phối hợp với thuốc lợi tiểu. ACEI 
nên được sử dụng ngay cho bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim ngay cả khi chưa
 biểu hiện dấu hiệusuy tim.
Thuốc
 lợi tiểu quai, thiazides và metolazon: Lợi tiểu là thuốc điềutrị chủ 
yếu đối với dấu hiệu giữ nước do ứ trệ tuần hoàn ở bệnh nhânsuy tim. 
Thuốc lợi tiểulàm giảm nhanh triệu chứng khó thở và tăng khả năng gắng 
sức của người bệnh. Thuốc lợi tiểu giữ kali chỉ nên chỉ định cho những 
bệnh nhân kali máu thấp dai dẳng cho dù đã dùng thuốc ACEI hoặc phối hợp
 spironolacton liều thấp và ACEI để điềutrị cho những bệnh nhânsuy tim 
nặng, đã dùng ACEI và spironolacton liều thấp. Bồi phụ kali nói chung 
không tác dụng trong những trường hợp này.
Thuốc
 chẹn bêta giao cảm: Thuốc chẹn bêta giao cảm (chẹn bêta) được khuyến 
cáo sử dụng cho mọi bệnh nhânsuy tim (NYHA I - IV) do bệnh lý cơ tim 
(thiếu máu hoặc không do thiếu máu) có phân số tống máu thấp khi đã 
điềutrị nội khoa tối ưu bằng thuốc lợi tiểu và ACEI trừ khi có chống chỉ
 định. Bên cạnh đó, các thuốc ức chế thụ thể angiotensin II, glycosides 
trợ tim, các thuốc giãn mạch trong điềutrị suy tim, thuốc inotrop dương 
cũng được sử dụng trong điềutrị suy tim.
Điều trị điện học đối với bệnh nhân suy tim
Tạo nhịp hai buồng thất (biventricular pacing)
Tạo
 nhịp hai buồng thất được chỉ định cho những bệnh nhânsuy tim độ III - 
IV, QRS rộng (> 120 ms), thường là blốc nhánh trái hoàn toàn, mức 
độsuy tim không được cải thiện nhiều mặc dù đã thực hiện tối đa các chế 
độ điềutrị nội khoa.
Điều trị chống rung (defibrilator therapy)
Cấy
 máy chống rung trong điềutrị hiện nay được chỉ định cho những bệnh nhân
 sống sót sau ngừng tuần hoàn, những bệnh nhân thường hay có cơn tim 
nhanh thất, những bệnh nhân có thể có cơn nhịp nhanh thất và phân số 
tống máu thất trái (EF) dưới 30% sau nhồi máu cơ tim.
Ghép tim
Ghép
 tim được chỉ định đối với những bệnh nhânsuy tim ứ huyết giai đoạn cuối
 với chức năng tim giảm nặng mặc dù đã được điềutrị nội khoa tích cực. 
Không chỉ định ghép tim đối với những bệnh nhân có nhiều nguy cơ tử vong
 phối hợp, tăng áp động mạch phổi nặng, nhiễm trùng tiến triển, rối loạn
 tâm thần, không tuân thủ điềutrị. Tỷ lệ sống còn của bệnh nhân sau 1 
năm là 85% và từ năm thứ hai trở đi, mỗi năm tỷ lệ sống còn giảm 4%. Các
 biến chứng khiến tỷ lệ sống giảm đi đó là thải ghép, nhiễm trùng, tắc 
hẹp động mạch vành và ung thư hóa.
Theo Bệnh học
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét