Suy tim là một hội chứng lâm sàng do máu bơm ra từ tim không đủ đáp ứng nhu cầu chuyển hóa hằng ngày của cơ thể.
Có
hai loại suy tim: suy tim tâm thu và suy tim tâm trương. Khả năng bóp
của tim bị suy giảm trong suy tim tâm thu và thể tích đổ đầy bị thiếu
hụt trong suy tim tâm trương.
Kỳ 1: Đánh giá các mức độ suy tim
Khi
cơ thể không được cung cấp máu đầy đủ thì các cơ chế thần kinh thể dịch
sẽ được hoạt hóa để tái phân bố máu cho phù hợp với hoạt động chức năng
của các cơ quan.Có thể coi đây là một cơ chế bù trừ của cơ thể nhưng
đến một lúc nào đó, triệuchứng suy tim trên lâm sàng sẽ nặng hơn lên
trong quá trình tiến triển của bệnh.
Suy tim có thể dẫn đến tử vong
Suy
tim là một hộichứng dễ gặp nhất là ở ngườicó tuổi. Với những tiến bộ
của y học, càng ngày càngcó nhiều bệnh nhân nhồi máu cơ tim được cứu
sống nhờ can thiệp tái tưới máu mạch vành nhưng phần lớn trong số họ đều
rối loạn chức năng tâm thu ở những mức độ khác nhau và dần dầncó thể
dẫn đến suy tim.
Bệnh
nhân suy tim thường tử vong trong những đợt suy tim mất bù nhất là
những bệnh nhân suy tim nặng. Ngoài ra còncó những nguyên nhân khác trực
tiếp dẫn đến tử vong là rối loạn nhịp tim, suy chức năng của các cơ
quan không được tưới máu đầy đủ như gan và thận. Những yếu tốcó tính dự
đoán tiên lượng nặng của bệnh nhân suy tim là rối loạn nhịp nhất, mức độ
suy tim nhiều, phân số tống máu thấp, catecholamine máu cao, BNP (B
type Natriuretic Peptide) cao, natri máu, cholesterol máu thấp và nhất
là giãn thất trái. Bệnh nhân suy tim do suy chức năng tâm thu và chức
năng tâm trươngcó tiên lượng xấu hơn những bệnh nhân chỉ suy đơn thuần
một trong hai chức năng đó.
Nguyên nhân gây suy tim
Suy
tim trái do suy chức năng tâm thu thất trái: Suy tim do suy chức năng
tâm thu thất trái chiếm khoảng 60-70% bệnh nhân suy tim. Nguyên nhân gây
suy chức năng tâm thu thường gặp là suy mạch vành nhất là ở giai đoạn
nặng hoặc bệnh nhân đãcó tiền sử nhồi máu cơ tim hoặc động mạch vành bị
hẹp không đủ khả năng cung cấp máu cho vùng cơ tim còn sống. Bên cạnh đó
còn do các nguyên nhân khác là bệnh tim giãn, bệnh van tim, tănghuyết
áp, cơ tim nhiễm độc, tim bẩm sinh.
Suy
tim phải thường do hậu quả của rối loạn chức năng tâm thu thất trái.
Cũngcó thể do hậu quả hoặc tiến triển của nhồi máu cơ tim thất phải,
tăng áp động mạch phổi, hở van ba lá mạn tính nặng hoặc loạn nhịp do
thiểu sản thất phải. Rối loạn chức năng tâm trương thất trái thường là
hậu quả của bệnh tănghuyết áp hoặc bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính do
suy mạch vành. Một số nguyên nhân khác đó là bệnh cơ tim hạn chế, thâm
nhiễm hoặc phì đại. Rối loạn chức năng tâm trương thất phảicó thể do
viêm màng ngoài tim co thắt hoặc ép tim. Suy tim cung lượng cao ít gặp
hơn, thường do nhiễm độc giáp, rò động tĩnh mạch, bệnh Paget, phụ nữcó
thai hoặc bệnh nhân thiếu máu nặng.
Dấu hiệu của suy tim
Có
nhiều dấu hiệu và triệuchứng gợi ý suy tim trên lâm sàng. Phần lớn bệnh
nhâncó dấu hiệu ứ máu phổi thể hiện bằng các triệuchứng như thở ngắn
hơi, hụt hơi, chẹn ngực vàcó những cơn khó thở kịch phát về đêm. Một số
bệnh nhâncó triệuchứng cung lượng tim thấp như mệt mỏi, giảm khả năng
gắng sức, giảm tưới máu thận. Triệuchứng lâm sàng điển hình của suy tim
phải là phù hai chi dưới, gan to, tĩnh mạch cổ nổi và bụng cổ trướng.
Xin giới thiệu hệ thống phân loại mức độ suy tim của Hội tim mạch New
York (NYHA) dựa trên những triệuchứng chức năng của người bệnh ở bảng
dưới.
Khám
lâm sàng cho những bệnh nhân suy tim mất bù thường thấy nhịp tim nhanh,
tiếng thứ nhất mờ,có thểcó tiếng thứ 3, thứ 4 hoặc nhịp ngựa phi.Có thể
nghe thấy tiếng thổi tâm thu của hở van hai lá hoặc hở van ba lá, tiếng
thứ hai tách đôi nghịch thường do mất đồng bộ về thời khoảng điện học
hoặc cơ học của thất trái,có thể nghe thấy tiếng thứ 4 khi suy chức năng
tâm trương thất trái. Nghe phổicó ran ẩm vàhuyết ápcó thể cao. Mỏm
timcó thể vẫn ở vị trí bình thường.
Xét
nghiệm thường quy đối với bệnh nhân suy tim là điện tim, siêu âm tim,
chụp Xquang tim phổi và định lượng natriuretic peptide B nếucó điều
kiện.
Theo Sức khỏe & Đời sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét