Theo y học cổ truyền có rất nhiều thảo dược, cây quý giúp hạ huyết áp. Bài viết dưới đây xin giới thiệu một số thảo dược thông dụng, dễ tìm.
Hoa hòe
Hoa hòe chữa tăng huyết áp
Cách dùng: Hoa hòe 12g, quyết minh tử 6g, cam thảo nam 2g. Sắc uống ngày một thang.
Đông y gọi hoa hòe là hòe mễ, mễ là hạt gạo, ý
nói vị thuốc từ hoa hòe, có kích thước chỉ bằng hạt gạo, nghĩa là còn ở
dạng nụ hoa, mới được dùng làm thuốc. Do vậy, ta phải thu hái hoa hòe,
ngay từ khi nó còn là nụ hoa, là như vậy.
Sau khi thu hái hoa hòe, người ta tuốt lấy nụ
hoa, nhặt bỏ các cành con và lá còn sót lại, rồi đem sao. Trong hoa hòe
có chứa rutin là hoạt chất chủ yếu, ngoài ra còn có Betulin.
Tác dụng sinh học của hoa hòe
Rutin – hoạt chất của hoa hòe có tác dụng
giống như vitamin P nên có tác dụng làm bền và giảm tính thấm của mao
mạch, giảm trương lực cơ trơn và chống co thắt, giảm tác dụng của
adrenalin trong cơ thể.
Trên thực tế lâm sàng, người ta thường dùng
hoa hòe để dự phòng tai biến của bệnh xơ vữa động mạch và điều trị bệnh
tăng huyết áp.
Ngoài ra còn dùng trong các trường hợp phụ nữ
băng huyết, chảy máu cam, ho ra máu, tổn thương ngoài da do bức xạ,
chống dị ứng, thấp khớp, làm vết thương chóng liền sẹo.
Cúc hoa vàng
Cách dùng: Cúc hoa 12g, quyết minh tử 12g sao thơm, lá dâu 6g, hòe hoa 6g, cam thảo nam 2g. Sắc uống ngày một thang, chia uống nhiều lần trong ngày.
Tên khoa học Chrysanthemun indicum L., C.
boreale Ma và C. Lavandulaejolium (Fisch) Mak. Thường dùng hoa để làm
thuốc. Trong hoa có chứa 3 glucosid và một số tinh dầu thơm.
Theo y học cổ truyền: Cúc hoa vị ngọt, đắng, tính hơi hàn. Vào các kinh phế, can, thận. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, mát gan, sáng mắt.
Thường được dùng để chữa các chứng phong nhiệt ở can kinh, mắt mờ, mắt đỏ sưng đau, hoa mắt chóng mặt. Liều dùng 4-24g.
Theo y học hiện đại: Dịch triết cồn cúc hoa vàng có tác dụng làm hạ huyết áp kéo dài thông qua tác dụng giãn mạch ngoại vi.
Trong thực tiễn lâm sàng, cúc hoa vàng làm giảm nhẹ các triệu chứng của bệnh tăng huyết áp như đau đầu, mất ngủ, choáng váng.
Ngoài ra còn được sử dụng rộng rãi trong điều trị các bệnh cảm lạnh, viêm não, cảm cúm…
Ích mẫu
Cách dùng: Ích mẫu thảo 12g, lá dâu 12g, cam thảo nam 2g. Sắc uống ngày một thang.
Tên khoa học Leonurus
Heterophyllus Sw. Còn có tên gọi sung úy, chói đèn. Thường dùng thân lá
với tên ích mẫu thảo hoặc quả chín có tên gọi là sung úy tử.
Là cây được trồng để làm thuốc và cũng mọc
hoang ở nhiều nơi ven suối, ven sông. Hoạt chất của ích mẫu gồm có
flavonoid, trong đó có một chất được xác định là rutin. Ngoài ra còn có
glucosid, steroid, tanin, tinh dầu… Trong quả có alkaloid là leonurin.
Theo tài liệu cổ, ích mẫu vị cay, đắng, tính
hơi hàn, có tác dụng trục ứ huyết, sinh huyết mới, hoạt huyết, điều
kinh. Liều dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc hoặc cao thuốc.
Tác dụng sinh học của ích mẫu trên tim mạch
đã được các nhà khoa học chứng minh. Cao lỏng ích mẫu có tác dụng làm hạ
huyết áp thông qua cơ chế làm giảm tác dụng co mạch của adrenalin…
Ngoài ra, ích mẫu còn có tác dụng tốt đối với cơ tim có bệnh. Tác dụng an thần của ích mẫu đã được ghi nhận.
Một số vi khuẩn gây bệnh ngoài da cũng bị ức
chế bởi ích mẫu… Liên Xô (cũ) đã áp dụng rượu thuốc ích mẫu điều trị
tăng huyết áp, rối loạn thần kinh tim và làm thuốc an thần.
Cây xú ngô đồng
Cách dùng: Lá xú ngô đồng 12g, cúc hoa 12g, hoa hòe 6g, cam thảo nam 2g. Sắc uống ngày một thang.
Tên khoa học Clerodendrum trichotomum Thum,
là tên gọi của một số cây như xích đồng nam (Clerodendrum squamatum
Vahl) và cây bạch đồng nữ (Clerodendrum fragrns (Vent) Willd).
Cây xích đồng nam còn có tên gọi: cây mò đỏ, bấn hoa đỏ.
Còn cây bạch đồng nữ còn có tên gọi: cây mò trắng, cây bấn trắng, vậy trắng.
Hai cây này thường dùng lá để làm thuốc, có
thể dùng dưới dạng chè thuốc. Trong lá cây có chứa một số glucosid và
alkaloid, acid…
Kinh nghiệm dân gian thường dùng lá bạch đồng
nữ chữa các bệnh ghẻ lở, mụn nhọt, rửa chốc đầu… và chữa bệnh khí hư,
bạch đới của phụ nữ với liều 15-20g lá khô sắc uống.
Rễ xích đồng nam, bạch đồng nữ sắc uống có tác dụng chữa bệnh vàng da, vàng mắt.
Theo các nhà khoa học, lá xú ngô đồng có tác dụng hạ huyết áp. Các thí nghiệm trên động vật cho thấy huyết áp hạ rõ rệt.
Thực tiễn lâm sàng cho thấy lá xú ngô đồng
được sử dụng để điều trị bệnh tăng huyết áp (sau 4-5 tuần dùng hàng
ngày, huyết áp mới giảm có ý nghĩa).
Đỗ trọng
Cách dùng: Đỗ trọng 100g, nhân sâm 12g. Ngâm với 1 lít rượu trắng 29,5 độ (rượu lúa mới). Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 5ml.
Hoặc: đỗ trọng 5-12g, sắc uống ngày một thang.
Hoặc: đỗ trọng 5-12g, cúc hoa 12g, hoa hòe 6g. Sắc uống ngày một thang.
Tên khoa học Cortex Eucommiae. Là vỏ của cây
đỗ trọng, chưa thấy mọc hoang ở nước ta, hiện đã di thực được. Vị thuốc
này ta vẫn còn phải nhập.
Trong đỗ trọng, có các alkaloid, D.glucosid, resin, acid hữu cơ, albumin, tinh dầu, chất béo…
Theo tài liệu cổ, đỗ trọng có vị ngọt, hơi
cay, tính ôn, vào 2 kinh can và thận. Có tác dụng bổ can thận, mạnh gân
cốt, an thai, dùng chữa đau lưng, đi tiểu nhiều, chân gối yếu mềm.
Tác dụng sinh học của đỗ trọng trên tim mạch
đã được chứng minh là tác dụng hạ huyết áp do ức chế trong tâm vận mạch ở
hành tủy.
Ngoài ra còn có tác dụng làm mạnh sự co bóp
cơ tim, lợi tiểu… Liên Xô (cũ) đã chính thức công nhận đỗ trọng là vị
thuốc dùng để điều trị bệnh tăng huyết áp, được dùng dưới dạng cao lỏng,
thuốc sắc hoặc ngâm rượu.
Cần chú ý: liều thấp có tác dụng giãn mạch, liều cao lại gây co mạch.
Theo Sức khỏe và Đời sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét