Tăng huyết áp là bệnh lý thường gặp nhất ở phụ nữ mang thai và là nguyên nhân chính gây ra các biến chứng, tử vong cho mẹ và thai nhi.
Có tới 15% phụ nữ mang thai tăng huyết áp (THA) và 25% trường hợp đẻ non là do THA.
Được coi là THA thai nghén khi trị số huyết áp đo được ở mức 140/90mmHg trở lên hoặc huyết áp tâm thu tăng trên 30mmHg, huyết áp tâm trương tăng trên 15mmHg so với mức huyết áp đo được ở thời điểm trước khi mang thai.
Để an toàn cho cả mẹ và con, những phụ nữ bị THA trước khi mang thai cần đánh giá kỹ lưỡng
để loại trừ những nguyên nhân gây THA thứ phát
THA vô căn: Chiếm 3 - 5% số lần mang thai của phụ nữ và có xu hướng
ngày càng gia tăng do phụ nữ ngày nay thường sinh con muộn (từ 30 - 40
tuổi). Nếu những phụ nữ này được kiểm soát huyết áp tốt thì quá trình
mang thai vẫn có thể diễn ra bình thường.
Tuy nhiên, nếu THA vô căn nặng (huyết áp tâm trương trên 110mmHg)
trước tuần thứ 20 của thai kỳ nguy cơ tiền sản giật tăng lên đến 46% và
cũng làm tăng nguy cơ cho cả mẹ và thai nhi.
THA thai nghén: Khi THA xảy ra vào nửa sau của thai kỳ ở các phụ nữ
có số đo huyết áp trước lúc mang thai hoàn toàn bình thường.
THA thai nghén chiếm 6 - 7% số lần mang thai của phụ nữ và khỏi
hoàn toàn khi hết thời kỳ hậu sản. Nguy cơ tiền sản giật là 15 - 26%.
Nếu THA xuất hiện vào tuần thứ 36 của thai kỳ thì nguy cơ chỉ còn 10%.
Tiền sản giật thường xảy ra từ tuần thứ 20 của thời kỳ thai nghén
và gây tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau. Trước đây, người ta chẩn
đoán tiền sản giật dựa vào chứng: THA, phù và protein niệu nhưng quan
niệm hiện đại thì cho rằng, chỉ cần có THA thai nghén kèm protein niệu
nhiều là đủ để chẩn đoán tiền sản giật.
Nguy cơ của thai nhi là chậm phát triển trong buồng tử cung và bị
đẻ non. Đặc biệt nghiêm trọng là để lại hậu quả lâu dài trên hệ tim
mạch. Những người bị THA ở lần mang thai đầu, có nguy cơ THA ở lần mang
thai sau. Họ còn có nguy cơ bị THA và đột quỵ cao sau này.
Để an toàn cho cả mẹ và con, những phụ nữ bị THA trước khi mang
thai cần đánh giá kỹ lưỡng để loại trừ những nguyên nhân gây THA thứ
phát như bệnh lý thận, nội tiết, đánh giá hiệu quả điều trị huyết áp và
chỉnh liều thuốc để đạt hiệu quả hạ áp tối ưu, tư vấn nguy cơ tiền sản
giật và thay đổi thuốc để mang thai an toàn.
Phần lớn những phụ nữ bị THA đều có thể mang thai và sinh nở bình
thường nếu họ được kiểm soát huyết áp tốt và được theo dõi chặt chẽ.
Theo PGS.TS Nguyễn Quang Tuấn (Viện Tim mạch Quốc gia)
- Khoa học và Đời sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét